Chương 28: Núi Thường Lạc
*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.
Cách thành Thạch Bàn mười dặm về phía Tây Bắc có sông Hồ Lô, nước sông tạo nên từ băng tuyết tan trong Kỳ Liên Sơn. Tháng tư xuân ấm mà nước sông lại lạnh cắt da cắt thịt. Cây hồ dương* hai bên bờ cành là đan chen vào nhau tạo thành những vùng bóng râm, đám lau sậy thân xanh bông trắng mọc rậm rạp thành rừng. Đứng dưới ánh trăng nhìn từ xa xa, trông hệt như một lớp sương tuyết mỏng nhẹ, lay động phất phơ theo chiều gió.
Lý Vị đưa Xuân Thiên đạp ngựa đi qua đó, cỏ lau cao thẳng thắp, cả người lẫn ngựa bị che kín bên trong. Mùi cỏ cây nhàn nhạt thơm dịu quyện với mùi vừa buốt vừa ẩm ướt của nước sông xộc thẳng lên mặt. Con gà gô đang say giấc bị vó ngựa quấy nhiễu, nó giơ cánh vỗ phành phạch, lướt qua mặt sông thâm thấp, lủi sâu vào trong bụi sậy.
"Bờ sông ở đây rất hẹp, lại lắm cỏ lau, có thể thúc ngựa qua sông, cũng không dễ bị người khác phát hiện. Sau khi qua sông, đi năm mươi dặm về Tây Bắc qua núi Thường Lạc, phía sau rặng núi chính là huyện Thường Lạc." Lý Vị quay đầu ngựa, đối mặt với nàng nói giọng nghiêm túc, "Huyện Thường Lạc có quân phòng thủ, chúng ta không vào thành được, chỉ có thể qua đêm ở thôn dã, đi tiếp trăm dặm về phía Bắc, đường đất kiềm và nhiều cát, sau đó ta sẽ thấy được quan đạo để đi tới Y Ngô. Đi dọc theo quan đạo tới Y Ngô, rồi tiếp tục nghĩ cách vào Cam Lộ Xuyên."
"Không có giấy thông hành, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị quân đội đồn trú bên đường đuổi bắt hoặc dùng gậy đánh chết. Ngoài ra trên đường còn có đạo tặc, cát lún, gió khô nóng, dịch bệnh. Chúng ta phải băng qua sa mạc lớn, sông khô cạn, cánh đồng hoang, núi phủ tuyết. Con đường phía trước khó lường, gian khổ vô cùng, không phải điều mà cô tưởng tượng ra được. Cô... đã nghĩ kỹ rồi chứ?"
Nàng không cảm thấy đáng sợ bao nhiêu, ánh trăng chiếu xuống khuôn mặt trầm tĩnh của nàng, câu trả lời chắc nịch: "Nghĩ kỹ rồi."
"Vậy... đi thôi." Lý Vị đưa roi ngựa của mình cho nàng, "Nước sông chảy xiết, cô nắm cho chắc."
Trăng rọi sáng ngời, dòng chảy như ươm tơ bạc, nước phi ầm ầm, con ngựa dưới thân nơm nớp lo sợ. Hắn dắt nàng, nàng nắm chặt cây roi đi theo hắn, từng bước từng bước một tiến tới bờ bên kia.
Mùa này ban đêm có côn trùng kêu rả rích, khi ngắn khi dài, cỏ lau lung lay theo gió, gợn sóng liên hồi. Bọn họ phải đi mau, phải tránh lửa báo hiệu trước lúc bình minh ló dạng, náu mình vào núi Thường Lạc ngàn nhận* vạn vách.
(*Nhận: Đơn vị đo lường thời xưa, một nhận bằng 8 hoặc 7 thước)
Ngựa phi vun vút, thoạt đầu còn có cỏ lau bạt ngàn, hồ dương cao ngất, liễu đỏ thướt tha chắn tầm mắt. Càng đi về sau, sắc xuân càng suy tàn, đồng bằng bao la, rất có cảm giác "ruộng đồng mênh mông sao sà thấp, gương nga loang loáng sóng cuộn trào"*. Có điều, nước sông giờ đây đã được thay bằng cây lùn cỏ dại trải dài vô tận dưới chân.
(*Hai câu thơ trong "Lữ dạ thư hoài" của Đỗ Phủ)
Kỹ thuật cưỡi ngựa của Xuân Thiên hiển nhiên là không điêu luyện như Lý Vị, sớm đã đầm đìa mồ hôi, tóc nàng dính vào trán, gặp gió lạnh thổi cát đến, hai bên thái dương toàn bụi là bụi. Cả đêm Lý Vị đưa nàng đi rồi lại dừng, cuối cùng cũng chui được vào trong núi trước rạng đông.
Núi Thường Lạc trăm dặm nối liền, chẳng thấy bóng dáng một ngọn cỏ, thế núi dốc đứng, trên không có chim bay, dưới không có suối nước. Toàn bộ trong núi đều là đá vỡ phong hóa, vừa đặt chân lên dốc, những hòn đá dưới chân phút chốc đã bể vụn lăn xuống long lóc. Lý Vị tìm chỗ khe núi khuất nẻo, chọn một nơi rãnh nghiêng có thể tránh gió để buộc ngựa, nói với Xuân Thiên: "Tạm thời nghỉ chân ở đây đi."
Xuân Thiên biết mấy ngày nay chưa ngủ được giấc nào tròn, bôn ba cả đêm đã sớm hết hơi hết sức, tinh thần cạn kiệt. Nàng đâu bao giờ cưỡi ngựa tốc hành xuyên đêm thế này, hai bên chân đã sưng tấy lên, tê rần, vừa động đậy cái là đau như bị kim châm. Nhưng nàng vẫn chịu đựng không rên tiếng nào. Lúc đi theo Lý Vị thì cứ cậy mạnh, giờ có kiểu gì cũng không xuống ngựa nổi.
Lý Vị thấy nàng nhăn nhó, ấn đường thoáng hiện nét đau đớn, lần lữa không chịu xuống dưới. Lòng hắn tỏ được mấy phần, người của triều đại này cư ngụ ở đồng bằng đã lâu, không thể rong ruổi trên lưng ngựa trong một thời gian dài như những tộc khác. Tuy nhiên, nếu nàng đã hạ quyết tâm muốn đi, vậy thì khổ cực ấy sớm muộn gì cũng phải nếm trải. Hắn vươn tay ra đỡ nàng: "Xuống dưới thôi."
Xuân Thiên mím môi, nhíu mày ra sức lắc đầu. Ánh mắt Lý Vị như đã hiểu rõ, vươn tay cố chấp nói: "Có đau nữa cũng phải xuống, ngồi càng lâu, về sau càng đau."
Nàng cắn môi, run run rẩy rẩy nắm cương ngựa chuẩn bị nhảy xuống, khuôn mặt đỏ ửng nhăn rúm ró, roi ngựa trong tay Lý Vị vung lên quấn lấy lưng nàng, chỉ kéo nhẹ một cái là nàng đã ngã xuống bả vai hắn.
Xuân Thiên khẽ rên lên vì cơn đau lan khắp người, nàng bị hắn khiêng lên vai bước đi một cách nhẹ nhàng. Lý Vị sải bước rộng ném nàng vào tấm thảm nỉ, hai tay quấn thảm bọc nàng lại thật chặt. Nàng bị bọc trong tấm thảm ngọ nguậy một phen quay cuồng, liên tục hít không khí, để lộ khuôn mặt nhỏ nhắn lấm lem bụi đất, sắc môi xanh trắng khô nẻ. Còn hắn tất nhiên vẫn giữ thần sắc bình tĩnh, ngữ khí ôn hòa: "Cô nghỉ ngơi đi, ta đi làm chút gì đó ăn."
Xuân Thiên nằm trong thảm nỉ ấm áp, còn tâm trạng nào quan tâm tới việc khác nữa. Mí mắt nàng dính rịt vào nhau, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thiêm thiếp ngủ. Khi Lý Vị quay về, thấy tấm thảm nỉ quấn trọn cả người nàng không chừa tí khe hở nào, chỗ vai nhấp nhô, đang ngủ say sưa tít mù, hắn không khỏi lắc đầu cười cười, rồi tự đi làm việc của mình.
Không biết nàng đã ngủ bao lâu, vừa đặt đầu là đánh một giấc sâu, lúc mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao. Ánh nắng chói lọi chiếu xuống những bức tường đá màu vàng đất và đỏ sậm. Trời quang rộng lớn, làn khói xanh bên cạnh lúc ẩn lúc hiện, cái thố đồng* be bé đen sì bắc trên một ngọn lửa nhỏ, trong nồi có canh nóng bốc khói nghi ngút, có mấy cọng lá chìm nổi chả biết là cái gì.
"Là một loại cam thảo, cho vào nước sẽ có vị ngọt thanh, có tác dụng bồi bổ tăng cường sức khỏe, chắc sẽ có lợi cho cô đấy." Lý Vị đang tựa vào tảng đá vót cành cây, hắn ném cho nàng cái bánh vừng: "Xé rồi nhúng vào canh cho mềm hẵng ăn."
Tuy bánh vừng bị sém, không có đồ ăn kèm, nhai khô cũng khó nuốt trôi, nhưng Xuân Thiên vẫn gật gật đầu, chia bánh làm đôi đưa cho Lý Vị một nửa: "Đại gia đã ăn chưa?"
Lý Vị gật đầu, Xuân Thiên ngồi thẳng lưng, chìa tay nhận đồ ăn với một tư thế nhẹ nhàng, cầm lấy thả ra một cách có kỷ luật, nhai kỹ nuốt khẽ không gây ra tiếng động, rõ ràng là được dạy dỗ từ nền giáo dưỡng tốt đẹp. Trước kia Lý Vị chưa từng chú ý, hôm nay nhìn nàng ăn cơm, cũng cảm thấy vui tai vui mắt.
Khi ngọn lửa tắt, Lý Vị gạt đống tro bụi sang một bên, lục lọi từ trong đất ra ba quả trứng nhỏ lốm đốm tro, đẩy đến trước mặt Xuân Thiên: "Tìm được cái ổ trong bụi cỏ, tiếc là gà gô chạy hết rồi, còn mỗi mấy quả trứng này thôi."
"Trứng chim nhỏ quá."
Nàng vuốt quả trứng cong mắt cười, trứng vẫn còn nóng lắm, vô tình đầu ngón tay chạm vào bị phỏng, nàng la lên một tiếng rồi nhảy bật ra khỏi tấm thảm nỉ, chân giậm một cái xuống đất, nào còn dáng điệu quy củ đoan trang vừa rồi. Lý Vị bất giác nở nụ cười, bấy giờ Xuân Thiên mới phát hiện bản thân thất thố, hai tay nàng giấu ra sau lưng, mặt mày ủ rũ.
Ăn lương khô xong, Lý Vị xử lý đống tro, hai người bước vào núi thẳm. Truy Lôi vốn dĩ là một con ngựa đầu đàn trong Kỳ Liên Sơn, rất hiểu tính con người, khỏi cần ai dắt, tự giác dẫn ngựa của Xuân Thiên đi theo sau chủ nhân. Cả hai càng đi sâu vào trong núi, đường càng gập ghềnh, gió chả biết tràn vào từ khe nào, lùa qua vách đá tạo nên tiếng ma sát rin rít, đá vụn lăn khắp mặt đất, mấy bụi hắc mai biển co đầu rụt cổ chui dưới chân. Lý Vị đưa nàng đi qua bao nhiêu là khúc rẽ quanh co, vượt một vách núi, trước mắt bỗng nhiên hiện ra một con đèo nhỏ âm u dài và hẹp nằm ẩn khuất, gió thổi cực mạnh đuổi rắn chuồn vào trong.
"Đây là con đèo gió Bắc thổi ra, xuyên qua đường núi này là đến huyện Thường Lạc rồi." Lý Vị chắn trước người nàng, "Cẩn thận đá rơi đấy."
Hai người ngược gió đi trong rãnh khô nửa ngày trời, con đường phía trước dần dần mở rộng. Xuân Thiên cúi đầu đi sau lưng Lý Vị, dưới dẫn dắt của hắn, nàng giương mi, hóa ra là đã ra khỏi chân núi Nam của núi Thường Lạc với đỉnh cao dốc đứng, đồi núi trước mặt cao thấp trùng điệp, cỏ cây mọc thành cụm, huyện Thường Lạc ở ngay sau đồi.
Phía Nam chân núi Thường Lạc cực kỳ khô hạn, chân núi phía Bắc lại có một ốc đảo được hình thành bởi một con sông chảy theo mùa, nước sông là băng tuyết của Kỳ Liên Sơn tan chảy xuôi xuống. Xuân vừa đúng độ phơi phới, cỏ dại đầy đất rậm tốt như tấm thảm khổng lồ, đóa hoa nhỏ xíu nấp dưới những cành lá. Gió phất qua khuôn mặt vầng trán, không trung mênh mông, mới đầu chỉ cảm thấy dễ chịu thích mắt, đi cả buổi, lúc bấy giờ mới thấu được nỗi thống khổ trong đó. Trời không một đám mây, đất chẳng một bóng râm, nắng chói chang như nướng cả người, đến độ miệng khô lưỡi khô, mồ hôi nhễ nhại. Bị gió mạnh thổi suốt đường đi, mặt mũi phơi lồ lộ giữa ánh mặt trời gay gắt, mu bàn tay nóng rát nhức nhối. Xuân Thiên quệt trán, tức thì tay dính một lớp bụi lẫn mồ hôi nhớp nháp, sau lưng như có côn trùng cắn, đứng ngồi chả yên, mồm miệng đắng nghét, nước trong túi da vẫn còn hơn nửa, mà đến cả hơi sức động đầu ngón tay dốc nước vào họng cũng đã cạn sạch.
Lý Vị đưa nàng hành tẩu một ngày, vậy nhưng chưa hề lên tiếng chỉ cho nàng nên xoay sở như thế nào. Chẳng qua chỉ là tí gian lao nhỏ nhặt, không phải ghê gớm gì, tiếp sau đây lại càng vất vả nữa — hắn cố ý để nàng chịu chút khổ cực, biết khó mà lui. Mà cho đến tận khi hoàng hôn buông xuống được nửa, nàng cũng không than thở tiếng nào, chăm chú theo sát phía sau hắn.
Mắt thấy mặt trời lặn tới lưng chừng, Lý Vị không cưỡng ép gấp rút lên đường nữa, hắn xoay người xuống ngựa tìm chỗ ăn ngủ. Xuân Thiên mệt mỏi cùng cực, chân cẳng mềm nhũn, khụy xuống đất thở không ra hơi, nàng nhìn quanh quất bốn bề, ngày vừa tàn, gió đêm lành lạnh, thậm chí hít thở cũng khó khăn. Nàng cất giọng hỏi: "Đại gia, tối nay chúng ta phải ở đây sao?"
Lý Vị nhìn nàng tiều tụy phờ phạc, nhẹ nhàng nói: "Từ giờ trở đi, chắc có lẽ sẽ rất nhiều đêm phải tá túc trong núi hoang vắng lạnh, trong núi thường xuất hiện thú dữ, có kiến độc, cô có sợ không? Nếu cô thấy sợ, chúng ta vào huyện Thường Lạc tìm nơi ngủ trọ."
Nàng nhăn mặt cau mũi, lấy từ ống tay áo ra thanh chủy thủ: "Tôi có dao của cha, cũng từng qua đêm ở nơi hoang dã, tất nhiên là không sợ." Nàng giơ chủy thủ, "Tôi từng dùng con dao này chém chết một con rắn độc đấy."
Lý Vị nhìn cổ tay gầy yếu mảnh khảnh nâng thanh chủy thủ đen kịt của nàng, nhoẻn miệng cười: "Vậy tối nay, đành nhờ bảo đao của cô nương trấn giữ, bảo vệ an toàn của cô và ta."
Trong núi cực kỳ nhiều chim thú, cỏ linh lăng mọc tràn khắp, nở những nụ hoa tím hoa trắng, ngựa thích nhất là ăn loại cỏ này. Hai con ngựa hí lên vài tiếng rồi tự đi tìm một bãi cỏ mềm rậm rạp làm bữa ăn. Lý Vị chọn chỗ dốc đã khuất gió để dừng chân, cởi bỏ tay nải, hỏi Xuân Thiên: "Buổi tối muốn ăn gì?"
Ngữ khí của hắn thoải mái, nét mặt tự nhiên, xắn ống tay áo, dáng vẻ như sắp chuẩn bị nấu ăn. Xuân Thiên thừ người nhìn mấy cái bánh vừng trong bao đồ căng phồng, vươn ngón tay đỏ hồng ra chọc chọc, Lý Vị nhe răng cười: "Không ăn bánh nữa." Hắn lấy chiếc túi da trâu nhỏ màu đen từ trong quần áo ra, bên trong túi là mười đầu mũi tên loe lóe được mài sắc bén, gắn vào nhánh cây đã vót sẵn ban sáng, ngón tay hắn kéo sợi dây gân trâu linh hoạt quấn một vòng, rất nhanh chóng một cây cung nhỏ đã nằm trong tay.
Xuân Thiên ngây ngẩn nhìn động tác của hắn, hỏi: "Đại gia muốn làm gì?"
"Săn thú." Lý Vị dặn dò nàng một phen rồi đi vào trong rừng, mới bước được nửa bước thì lại quay gót về, hắn lôi một cọng dây thừng ra, buộc một cái còi đồng nhỏ vàng rực vào đầu dây, cái còi vẫn còn mang theo nhiệt độ cơ thể hắn. Hắn theo Lý phụ cưỡi ngựa từ năm mười ba tuổi, có cái còi đồng này là khi gia nhập đội lạc đà, nó đã treo bên người hắn hơn mười năm. Lý Vị tháo còi đồng xuống, nhét vào tay nàng: "Đừng đi xa, có việc thì thổi còi, ta ở gần đây, có thể nghe thấy."
Xuân Thiên nắm còi đồng, vội gật đầu như giã tỏi. Trời nhá nhem tối, rắn trườn trong rừng, gió quét lạnh run, nàng cũng không dám đi xa. May mà đất rừng ở đây khô ráo nhiều củi, nàng lập tức đi gom chúng lại thành một đống, mở ngòi lấy lửa đốt củi lên, sau đó duỗi dài cổ chờ Lý Vị quay về.
Lý Vị về rất nhanh, trên tay xách con thỏ hoang béo mầm cùng mấy con chim mới sinh. Trong núi không có nước để rửa sạch, thỏ hoang mổ bụng moi lòng, lấy máu lột da, sau đó dùng nhánh cây xâu vào, đặt trên lửa lớn quay. Chim thì lấy thẳng lá cây gói lại rồi vùi dưới lửa nướng. Xuân Thiên nhìn hắn làm hết sức nhanh nhẹn, tay không dính lấy một tí máu, nàng sinh lòng khâm phục, chợt nhớ tới cảnh mổ thịt lợn rừng ở Tôn gia ngày hôm đó, bèn nghiêng đầu nói: "Đại gia cái gì cũng biết, có vẻ cũng rất giỏi nấu nướng."
Lý Vị ngẩng đầu liếc nàng một cái, cười bảo: "Ta từng làm hỏa đầu quân một năm, chính là kiểu chuyên nấu cơm cho đại quân."
"Hỏa đầu quân?" Bỗng dưng nàng nổi hứng, lại gần đống lửa đưa củi cho Lý Vị, "Lúc chú Trần đưa cha tôi đến Bắc Đình, cha tôi làm công việc văn thư trong quân. Quân đội có nhiều binh chủng như vậy, tại sao đại gia lại làm hỏa đầu quân?"
Có lẽ nàng vẫn chưa ý thức được các quy tắc của thế gian này, rằng dòng dõi và thân phận là thứ khó có thể vượt qua. Ở trong quân, trước đến giờ chưa từng có câu chuyện nào bắt đầu từ không chút tiếng tăm cho tới đánh một trận chiến danh vang khắp thiên hạ. Thiếu niên tướng lĩnh tiêu sái phong hầu bái tướng, thì đó phần lớn cũng là con đường tắt lót rất nhiều bậc thang trong tối ngoài sáng mới đạt đến được. Công huân mười hai bậc*, phải có bao nhiêu vận may và đầu cơ mới có thể giúp một binh lính tầm thường từng bước từng bước đi tới vị trí binh tào, hiệu úy, đô úy, thậm chí tướng quân. Nghiêm Tụng ở trong quân hai mươi năm cũng chỉ là một hỏa trường nhỏ bé canh giữ Ngọc Môn quan, cha Xuân Thiên xuất thân là tiểu lại trong quan, đương nhiên là phải bắt đầu từ vị trí văn thư. Đoàn gia Lương Châu phú quý giàu sang chi tiêu vô số, mấy thế hệ kinh doanh cũng mới chỉ bước vào triều đình, vẫn chưa đứng vững gót chân đâu.
(*Công huân mười hai bậc: Công huân nghĩa là công lao lớn. Mười hai bậc ở đây được trích từ hai câu "Sách huân thập nhị chuyển, thưởng tứ bách thiên cường" trong Mộc Lan từ. Ý đại khái của câu "Công huân mười hai bậc" là người lập công lao cực lớn, vượt qua mười hai bậc, được thăng lên bậc cao nhất là Thượng trụ quốc)
Quân Mặc Ly trước nay nổi tiếng là hung hãn quả cảm, một nửa binh lính trong quân là người Hồ dũng mãnh đã quy thuận triều đình, hầu hết các tướng lĩnh đều là hậu duệ trung dũng vững chắc của dòng tộc. Mỗi lần quân đội đánh thắng một trận chiến, tiền thưởng của binh sĩ là hai quan tiền, hỏa đầu được thưởng tám trăm văn tiền, ai ai cũng muốn ra trận giết địch, mưu cầu phú quý. Nhưng người bình thường khi mới bắt đầu, đều phải đi từ chức vụ cấp thấp như hỏa đầu trong quân, rồi sau đó mới nắm lấy cơ hội bước từng bước lên trên.
Lý Vị mỉm cười: "Đồ ăn trong quân chỉ tàm tạm, hỏa đầu lại làm qua quýt, có người biết ta biết nấu ăn nên cố ý tiến cử ta làm hỏa đầu."
"Tiến cử?" Xuân Thiên lẩm bẩm, hỏa đầu là kế sinh nhai của các binh sĩ tuổi già sức yếu trong quân, tại sao còn cần phải tiến cử?
Lý Vị kiên nhẫn lật thịt thỏ, mùi thịt cháy sém cùng với dầu nhỏ giọt xuống đống lửa. Hắn hái được một nắm lá cỏ non, còn mang theo bên mình một túi muối thôi nhỏ, cẩn thận xát nước cỏ và muối thô lên thịt thỏ. Lý Vị cắt ra một miếng, lấy chủy thủ xiên vào rồi đưa cho Xuân Thiên: "Nếm thử xem."
Thực sự là thơm nức mũi, nàng chưa từng ăn món thịt nào như này, vị mặn và vị ngọt theo mỡ tan trong miệng, càng cảm nhận rõ được cái mọng nước của thịt, vừa mềm lại vừa thơm. Nàng bị nóng, thổi phù phù liên tục, Lý Vị lấy túi nước cho nàng, nhẹ nhàng nói: "Coi chừng phỏng."
Lý Vị khéo léo lóc xương thỏ ra khỏi thịt, chia làm hai nửa, một nửa đưa cho Xuân Thiên, Xuân Thiên được ăn ngon, lập tức cúi người thật thấp tỏ lời cảm ơn, cười nói: "Đại gia đúng là lợi hại."
Hai người ăn uống xong, Lý Vị đào hố chôn xương xẩu và chỗ đất dính máu đi. Ngoài ánh lửa có tiếng kêu của côn trùng lẫn chim, bầu trời trăng sáng sao dày đặc, gió đêm buốt lạnh. Hai người ngồi trước đống lửa, Xuân Thiên thẫn thờ hồi lâu, hỏi: "Quân đội là như thế nào ạ?"
Lý Vị không trả lời nàng, chỉ nói một câu: "Trễ rồi, đi ngủ sớm đi, ngày mai phải lên đường sớm đấy."
Nàng gật đầu, người ta nói căng da bụng trùng da mắt, nàng xấp nước cái khăn lau sạch hai má, nằm trong thảm nỉ lim da lim dim. Củi lại được ném vào lửa, phát ra tiếng củi gỗ nứt đôm đốp. Nàng ngẩng đầu lên nhìn Lý Vị, hắn ngồi khoanh chân bên cạnh nàng, bóng hình bao phủ lấy nàng, một chân thoải mái chống lên, cầm túi rượu trong tay uống một hớp. Hắn chăm chú nhìn đống lửa bập bùng, ánh lửa nhảy nhót trên khuôn mặt hắn, chợt sáng chợt tối.
Thế rồi nàng nhắm mắt ngủ, chỉ cần hắn ở đây, là nàng thấy yên tâm.
(còn tiếp)
*Chú thích
Cách thành Thạch Bàn mười dặm về phía Tây Bắc có sông Hồ Lô, nước sông tạo nên từ băng tuyết tan trong Kỳ Liên Sơn. Tháng tư xuân ấm mà nước sông lại lạnh cắt da cắt thịt. Cây hồ dương* hai bên bờ cành là đan chen vào nhau tạo thành những vùng bóng râm, đám lau sậy thân xanh bông trắng mọc rậm rạp thành rừng. Đứng dưới ánh trăng nhìn từ xa xa, trông hệt như một lớp sương tuyết mỏng nhẹ, lay động phất phơ theo chiều gió.
Lý Vị đưa Xuân Thiên đạp ngựa đi qua đó, cỏ lau cao thẳng thắp, cả người lẫn ngựa bị che kín bên trong. Mùi cỏ cây nhàn nhạt thơm dịu quyện với mùi vừa buốt vừa ẩm ướt của nước sông xộc thẳng lên mặt. Con gà gô đang say giấc bị vó ngựa quấy nhiễu, nó giơ cánh vỗ phành phạch, lướt qua mặt sông thâm thấp, lủi sâu vào trong bụi sậy.
"Bờ sông ở đây rất hẹp, lại lắm cỏ lau, có thể thúc ngựa qua sông, cũng không dễ bị người khác phát hiện. Sau khi qua sông, đi năm mươi dặm về Tây Bắc qua núi Thường Lạc, phía sau rặng núi chính là huyện Thường Lạc." Lý Vị quay đầu ngựa, đối mặt với nàng nói giọng nghiêm túc, "Huyện Thường Lạc có quân phòng thủ, chúng ta không vào thành được, chỉ có thể qua đêm ở thôn dã, đi tiếp trăm dặm về phía Bắc, đường đất kiềm và nhiều cát, sau đó ta sẽ thấy được quan đạo để đi tới Y Ngô. Đi dọc theo quan đạo tới Y Ngô, rồi tiếp tục nghĩ cách vào Cam Lộ Xuyên."
"Không có giấy thông hành, bất cứ lúc nào cũng có khả năng bị quân đội đồn trú bên đường đuổi bắt hoặc dùng gậy đánh chết. Ngoài ra trên đường còn có đạo tặc, cát lún, gió khô nóng, dịch bệnh. Chúng ta phải băng qua sa mạc lớn, sông khô cạn, cánh đồng hoang, núi phủ tuyết. Con đường phía trước khó lường, gian khổ vô cùng, không phải điều mà cô tưởng tượng ra được. Cô... đã nghĩ kỹ rồi chứ?"
Nàng không cảm thấy đáng sợ bao nhiêu, ánh trăng chiếu xuống khuôn mặt trầm tĩnh của nàng, câu trả lời chắc nịch: "Nghĩ kỹ rồi."
"Vậy... đi thôi." Lý Vị đưa roi ngựa của mình cho nàng, "Nước sông chảy xiết, cô nắm cho chắc."
Trăng rọi sáng ngời, dòng chảy như ươm tơ bạc, nước phi ầm ầm, con ngựa dưới thân nơm nớp lo sợ. Hắn dắt nàng, nàng nắm chặt cây roi đi theo hắn, từng bước từng bước một tiến tới bờ bên kia.
Mùa này ban đêm có côn trùng kêu rả rích, khi ngắn khi dài, cỏ lau lung lay theo gió, gợn sóng liên hồi. Bọn họ phải đi mau, phải tránh lửa báo hiệu trước lúc bình minh ló dạng, náu mình vào núi Thường Lạc ngàn nhận* vạn vách.
(*Nhận: Đơn vị đo lường thời xưa, một nhận bằng 8 hoặc 7 thước)
Ngựa phi vun vút, thoạt đầu còn có cỏ lau bạt ngàn, hồ dương cao ngất, liễu đỏ thướt tha chắn tầm mắt. Càng đi về sau, sắc xuân càng suy tàn, đồng bằng bao la, rất có cảm giác "ruộng đồng mênh mông sao sà thấp, gương nga loang loáng sóng cuộn trào"*. Có điều, nước sông giờ đây đã được thay bằng cây lùn cỏ dại trải dài vô tận dưới chân.
(*Hai câu thơ trong "Lữ dạ thư hoài" của Đỗ Phủ)
Kỹ thuật cưỡi ngựa của Xuân Thiên hiển nhiên là không điêu luyện như Lý Vị, sớm đã đầm đìa mồ hôi, tóc nàng dính vào trán, gặp gió lạnh thổi cát đến, hai bên thái dương toàn bụi là bụi. Cả đêm Lý Vị đưa nàng đi rồi lại dừng, cuối cùng cũng chui được vào trong núi trước rạng đông.
Núi Thường Lạc trăm dặm nối liền, chẳng thấy bóng dáng một ngọn cỏ, thế núi dốc đứng, trên không có chim bay, dưới không có suối nước. Toàn bộ trong núi đều là đá vỡ phong hóa, vừa đặt chân lên dốc, những hòn đá dưới chân phút chốc đã bể vụn lăn xuống long lóc. Lý Vị tìm chỗ khe núi khuất nẻo, chọn một nơi rãnh nghiêng có thể tránh gió để buộc ngựa, nói với Xuân Thiên: "Tạm thời nghỉ chân ở đây đi."
Xuân Thiên biết mấy ngày nay chưa ngủ được giấc nào tròn, bôn ba cả đêm đã sớm hết hơi hết sức, tinh thần cạn kiệt. Nàng đâu bao giờ cưỡi ngựa tốc hành xuyên đêm thế này, hai bên chân đã sưng tấy lên, tê rần, vừa động đậy cái là đau như bị kim châm. Nhưng nàng vẫn chịu đựng không rên tiếng nào. Lúc đi theo Lý Vị thì cứ cậy mạnh, giờ có kiểu gì cũng không xuống ngựa nổi.
Lý Vị thấy nàng nhăn nhó, ấn đường thoáng hiện nét đau đớn, lần lữa không chịu xuống dưới. Lòng hắn tỏ được mấy phần, người của triều đại này cư ngụ ở đồng bằng đã lâu, không thể rong ruổi trên lưng ngựa trong một thời gian dài như những tộc khác. Tuy nhiên, nếu nàng đã hạ quyết tâm muốn đi, vậy thì khổ cực ấy sớm muộn gì cũng phải nếm trải. Hắn vươn tay ra đỡ nàng: "Xuống dưới thôi."
Xuân Thiên mím môi, nhíu mày ra sức lắc đầu. Ánh mắt Lý Vị như đã hiểu rõ, vươn tay cố chấp nói: "Có đau nữa cũng phải xuống, ngồi càng lâu, về sau càng đau."
Nàng cắn môi, run run rẩy rẩy nắm cương ngựa chuẩn bị nhảy xuống, khuôn mặt đỏ ửng nhăn rúm ró, roi ngựa trong tay Lý Vị vung lên quấn lấy lưng nàng, chỉ kéo nhẹ một cái là nàng đã ngã xuống bả vai hắn.
Xuân Thiên khẽ rên lên vì cơn đau lan khắp người, nàng bị hắn khiêng lên vai bước đi một cách nhẹ nhàng. Lý Vị sải bước rộng ném nàng vào tấm thảm nỉ, hai tay quấn thảm bọc nàng lại thật chặt. Nàng bị bọc trong tấm thảm ngọ nguậy một phen quay cuồng, liên tục hít không khí, để lộ khuôn mặt nhỏ nhắn lấm lem bụi đất, sắc môi xanh trắng khô nẻ. Còn hắn tất nhiên vẫn giữ thần sắc bình tĩnh, ngữ khí ôn hòa: "Cô nghỉ ngơi đi, ta đi làm chút gì đó ăn."
Xuân Thiên nằm trong thảm nỉ ấm áp, còn tâm trạng nào quan tâm tới việc khác nữa. Mí mắt nàng dính rịt vào nhau, ngoảnh đi ngoảnh lại đã thiêm thiếp ngủ. Khi Lý Vị quay về, thấy tấm thảm nỉ quấn trọn cả người nàng không chừa tí khe hở nào, chỗ vai nhấp nhô, đang ngủ say sưa tít mù, hắn không khỏi lắc đầu cười cười, rồi tự đi làm việc của mình.
Không biết nàng đã ngủ bao lâu, vừa đặt đầu là đánh một giấc sâu, lúc mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao. Ánh nắng chói lọi chiếu xuống những bức tường đá màu vàng đất và đỏ sậm. Trời quang rộng lớn, làn khói xanh bên cạnh lúc ẩn lúc hiện, cái thố đồng* be bé đen sì bắc trên một ngọn lửa nhỏ, trong nồi có canh nóng bốc khói nghi ngút, có mấy cọng lá chìm nổi chả biết là cái gì.
"Là một loại cam thảo, cho vào nước sẽ có vị ngọt thanh, có tác dụng bồi bổ tăng cường sức khỏe, chắc sẽ có lợi cho cô đấy." Lý Vị đang tựa vào tảng đá vót cành cây, hắn ném cho nàng cái bánh vừng: "Xé rồi nhúng vào canh cho mềm hẵng ăn."
Tuy bánh vừng bị sém, không có đồ ăn kèm, nhai khô cũng khó nuốt trôi, nhưng Xuân Thiên vẫn gật gật đầu, chia bánh làm đôi đưa cho Lý Vị một nửa: "Đại gia đã ăn chưa?"
Lý Vị gật đầu, Xuân Thiên ngồi thẳng lưng, chìa tay nhận đồ ăn với một tư thế nhẹ nhàng, cầm lấy thả ra một cách có kỷ luật, nhai kỹ nuốt khẽ không gây ra tiếng động, rõ ràng là được dạy dỗ từ nền giáo dưỡng tốt đẹp. Trước kia Lý Vị chưa từng chú ý, hôm nay nhìn nàng ăn cơm, cũng cảm thấy vui tai vui mắt.
Khi ngọn lửa tắt, Lý Vị gạt đống tro bụi sang một bên, lục lọi từ trong đất ra ba quả trứng nhỏ lốm đốm tro, đẩy đến trước mặt Xuân Thiên: "Tìm được cái ổ trong bụi cỏ, tiếc là gà gô chạy hết rồi, còn mỗi mấy quả trứng này thôi."
"Trứng chim nhỏ quá."
Nàng vuốt quả trứng cong mắt cười, trứng vẫn còn nóng lắm, vô tình đầu ngón tay chạm vào bị phỏng, nàng la lên một tiếng rồi nhảy bật ra khỏi tấm thảm nỉ, chân giậm một cái xuống đất, nào còn dáng điệu quy củ đoan trang vừa rồi. Lý Vị bất giác nở nụ cười, bấy giờ Xuân Thiên mới phát hiện bản thân thất thố, hai tay nàng giấu ra sau lưng, mặt mày ủ rũ.
Ăn lương khô xong, Lý Vị xử lý đống tro, hai người bước vào núi thẳm. Truy Lôi vốn dĩ là một con ngựa đầu đàn trong Kỳ Liên Sơn, rất hiểu tính con người, khỏi cần ai dắt, tự giác dẫn ngựa của Xuân Thiên đi theo sau chủ nhân. Cả hai càng đi sâu vào trong núi, đường càng gập ghềnh, gió chả biết tràn vào từ khe nào, lùa qua vách đá tạo nên tiếng ma sát rin rít, đá vụn lăn khắp mặt đất, mấy bụi hắc mai biển co đầu rụt cổ chui dưới chân. Lý Vị đưa nàng đi qua bao nhiêu là khúc rẽ quanh co, vượt một vách núi, trước mắt bỗng nhiên hiện ra một con đèo nhỏ âm u dài và hẹp nằm ẩn khuất, gió thổi cực mạnh đuổi rắn chuồn vào trong.
"Đây là con đèo gió Bắc thổi ra, xuyên qua đường núi này là đến huyện Thường Lạc rồi." Lý Vị chắn trước người nàng, "Cẩn thận đá rơi đấy."
Hai người ngược gió đi trong rãnh khô nửa ngày trời, con đường phía trước dần dần mở rộng. Xuân Thiên cúi đầu đi sau lưng Lý Vị, dưới dẫn dắt của hắn, nàng giương mi, hóa ra là đã ra khỏi chân núi Nam của núi Thường Lạc với đỉnh cao dốc đứng, đồi núi trước mặt cao thấp trùng điệp, cỏ cây mọc thành cụm, huyện Thường Lạc ở ngay sau đồi.
Phía Nam chân núi Thường Lạc cực kỳ khô hạn, chân núi phía Bắc lại có một ốc đảo được hình thành bởi một con sông chảy theo mùa, nước sông là băng tuyết của Kỳ Liên Sơn tan chảy xuôi xuống. Xuân vừa đúng độ phơi phới, cỏ dại đầy đất rậm tốt như tấm thảm khổng lồ, đóa hoa nhỏ xíu nấp dưới những cành lá. Gió phất qua khuôn mặt vầng trán, không trung mênh mông, mới đầu chỉ cảm thấy dễ chịu thích mắt, đi cả buổi, lúc bấy giờ mới thấu được nỗi thống khổ trong đó. Trời không một đám mây, đất chẳng một bóng râm, nắng chói chang như nướng cả người, đến độ miệng khô lưỡi khô, mồ hôi nhễ nhại. Bị gió mạnh thổi suốt đường đi, mặt mũi phơi lồ lộ giữa ánh mặt trời gay gắt, mu bàn tay nóng rát nhức nhối. Xuân Thiên quệt trán, tức thì tay dính một lớp bụi lẫn mồ hôi nhớp nháp, sau lưng như có côn trùng cắn, đứng ngồi chả yên, mồm miệng đắng nghét, nước trong túi da vẫn còn hơn nửa, mà đến cả hơi sức động đầu ngón tay dốc nước vào họng cũng đã cạn sạch.
Lý Vị đưa nàng hành tẩu một ngày, vậy nhưng chưa hề lên tiếng chỉ cho nàng nên xoay sở như thế nào. Chẳng qua chỉ là tí gian lao nhỏ nhặt, không phải ghê gớm gì, tiếp sau đây lại càng vất vả nữa — hắn cố ý để nàng chịu chút khổ cực, biết khó mà lui. Mà cho đến tận khi hoàng hôn buông xuống được nửa, nàng cũng không than thở tiếng nào, chăm chú theo sát phía sau hắn.
Mắt thấy mặt trời lặn tới lưng chừng, Lý Vị không cưỡng ép gấp rút lên đường nữa, hắn xoay người xuống ngựa tìm chỗ ăn ngủ. Xuân Thiên mệt mỏi cùng cực, chân cẳng mềm nhũn, khụy xuống đất thở không ra hơi, nàng nhìn quanh quất bốn bề, ngày vừa tàn, gió đêm lành lạnh, thậm chí hít thở cũng khó khăn. Nàng cất giọng hỏi: "Đại gia, tối nay chúng ta phải ở đây sao?"
Lý Vị nhìn nàng tiều tụy phờ phạc, nhẹ nhàng nói: "Từ giờ trở đi, chắc có lẽ sẽ rất nhiều đêm phải tá túc trong núi hoang vắng lạnh, trong núi thường xuất hiện thú dữ, có kiến độc, cô có sợ không? Nếu cô thấy sợ, chúng ta vào huyện Thường Lạc tìm nơi ngủ trọ."
Nàng nhăn mặt cau mũi, lấy từ ống tay áo ra thanh chủy thủ: "Tôi có dao của cha, cũng từng qua đêm ở nơi hoang dã, tất nhiên là không sợ." Nàng giơ chủy thủ, "Tôi từng dùng con dao này chém chết một con rắn độc đấy."
Lý Vị nhìn cổ tay gầy yếu mảnh khảnh nâng thanh chủy thủ đen kịt của nàng, nhoẻn miệng cười: "Vậy tối nay, đành nhờ bảo đao của cô nương trấn giữ, bảo vệ an toàn của cô và ta."
Trong núi cực kỳ nhiều chim thú, cỏ linh lăng mọc tràn khắp, nở những nụ hoa tím hoa trắng, ngựa thích nhất là ăn loại cỏ này. Hai con ngựa hí lên vài tiếng rồi tự đi tìm một bãi cỏ mềm rậm rạp làm bữa ăn. Lý Vị chọn chỗ dốc đã khuất gió để dừng chân, cởi bỏ tay nải, hỏi Xuân Thiên: "Buổi tối muốn ăn gì?"
Ngữ khí của hắn thoải mái, nét mặt tự nhiên, xắn ống tay áo, dáng vẻ như sắp chuẩn bị nấu ăn. Xuân Thiên thừ người nhìn mấy cái bánh vừng trong bao đồ căng phồng, vươn ngón tay đỏ hồng ra chọc chọc, Lý Vị nhe răng cười: "Không ăn bánh nữa." Hắn lấy chiếc túi da trâu nhỏ màu đen từ trong quần áo ra, bên trong túi là mười đầu mũi tên loe lóe được mài sắc bén, gắn vào nhánh cây đã vót sẵn ban sáng, ngón tay hắn kéo sợi dây gân trâu linh hoạt quấn một vòng, rất nhanh chóng một cây cung nhỏ đã nằm trong tay.
Xuân Thiên ngây ngẩn nhìn động tác của hắn, hỏi: "Đại gia muốn làm gì?"
"Săn thú." Lý Vị dặn dò nàng một phen rồi đi vào trong rừng, mới bước được nửa bước thì lại quay gót về, hắn lôi một cọng dây thừng ra, buộc một cái còi đồng nhỏ vàng rực vào đầu dây, cái còi vẫn còn mang theo nhiệt độ cơ thể hắn. Hắn theo Lý phụ cưỡi ngựa từ năm mười ba tuổi, có cái còi đồng này là khi gia nhập đội lạc đà, nó đã treo bên người hắn hơn mười năm. Lý Vị tháo còi đồng xuống, nhét vào tay nàng: "Đừng đi xa, có việc thì thổi còi, ta ở gần đây, có thể nghe thấy."
Xuân Thiên nắm còi đồng, vội gật đầu như giã tỏi. Trời nhá nhem tối, rắn trườn trong rừng, gió quét lạnh run, nàng cũng không dám đi xa. May mà đất rừng ở đây khô ráo nhiều củi, nàng lập tức đi gom chúng lại thành một đống, mở ngòi lấy lửa đốt củi lên, sau đó duỗi dài cổ chờ Lý Vị quay về.
Lý Vị về rất nhanh, trên tay xách con thỏ hoang béo mầm cùng mấy con chim mới sinh. Trong núi không có nước để rửa sạch, thỏ hoang mổ bụng moi lòng, lấy máu lột da, sau đó dùng nhánh cây xâu vào, đặt trên lửa lớn quay. Chim thì lấy thẳng lá cây gói lại rồi vùi dưới lửa nướng. Xuân Thiên nhìn hắn làm hết sức nhanh nhẹn, tay không dính lấy một tí máu, nàng sinh lòng khâm phục, chợt nhớ tới cảnh mổ thịt lợn rừng ở Tôn gia ngày hôm đó, bèn nghiêng đầu nói: "Đại gia cái gì cũng biết, có vẻ cũng rất giỏi nấu nướng."
Lý Vị ngẩng đầu liếc nàng một cái, cười bảo: "Ta từng làm hỏa đầu quân một năm, chính là kiểu chuyên nấu cơm cho đại quân."
"Hỏa đầu quân?" Bỗng dưng nàng nổi hứng, lại gần đống lửa đưa củi cho Lý Vị, "Lúc chú Trần đưa cha tôi đến Bắc Đình, cha tôi làm công việc văn thư trong quân. Quân đội có nhiều binh chủng như vậy, tại sao đại gia lại làm hỏa đầu quân?"
Có lẽ nàng vẫn chưa ý thức được các quy tắc của thế gian này, rằng dòng dõi và thân phận là thứ khó có thể vượt qua. Ở trong quân, trước đến giờ chưa từng có câu chuyện nào bắt đầu từ không chút tiếng tăm cho tới đánh một trận chiến danh vang khắp thiên hạ. Thiếu niên tướng lĩnh tiêu sái phong hầu bái tướng, thì đó phần lớn cũng là con đường tắt lót rất nhiều bậc thang trong tối ngoài sáng mới đạt đến được. Công huân mười hai bậc*, phải có bao nhiêu vận may và đầu cơ mới có thể giúp một binh lính tầm thường từng bước từng bước đi tới vị trí binh tào, hiệu úy, đô úy, thậm chí tướng quân. Nghiêm Tụng ở trong quân hai mươi năm cũng chỉ là một hỏa trường nhỏ bé canh giữ Ngọc Môn quan, cha Xuân Thiên xuất thân là tiểu lại trong quan, đương nhiên là phải bắt đầu từ vị trí văn thư. Đoàn gia Lương Châu phú quý giàu sang chi tiêu vô số, mấy thế hệ kinh doanh cũng mới chỉ bước vào triều đình, vẫn chưa đứng vững gót chân đâu.
(*Công huân mười hai bậc: Công huân nghĩa là công lao lớn. Mười hai bậc ở đây được trích từ hai câu "Sách huân thập nhị chuyển, thưởng tứ bách thiên cường" trong Mộc Lan từ. Ý đại khái của câu "Công huân mười hai bậc" là người lập công lao cực lớn, vượt qua mười hai bậc, được thăng lên bậc cao nhất là Thượng trụ quốc)
Quân Mặc Ly trước nay nổi tiếng là hung hãn quả cảm, một nửa binh lính trong quân là người Hồ dũng mãnh đã quy thuận triều đình, hầu hết các tướng lĩnh đều là hậu duệ trung dũng vững chắc của dòng tộc. Mỗi lần quân đội đánh thắng một trận chiến, tiền thưởng của binh sĩ là hai quan tiền, hỏa đầu được thưởng tám trăm văn tiền, ai ai cũng muốn ra trận giết địch, mưu cầu phú quý. Nhưng người bình thường khi mới bắt đầu, đều phải đi từ chức vụ cấp thấp như hỏa đầu trong quân, rồi sau đó mới nắm lấy cơ hội bước từng bước lên trên.
Lý Vị mỉm cười: "Đồ ăn trong quân chỉ tàm tạm, hỏa đầu lại làm qua quýt, có người biết ta biết nấu ăn nên cố ý tiến cử ta làm hỏa đầu."
"Tiến cử?" Xuân Thiên lẩm bẩm, hỏa đầu là kế sinh nhai của các binh sĩ tuổi già sức yếu trong quân, tại sao còn cần phải tiến cử?
Lý Vị kiên nhẫn lật thịt thỏ, mùi thịt cháy sém cùng với dầu nhỏ giọt xuống đống lửa. Hắn hái được một nắm lá cỏ non, còn mang theo bên mình một túi muối thôi nhỏ, cẩn thận xát nước cỏ và muối thô lên thịt thỏ. Lý Vị cắt ra một miếng, lấy chủy thủ xiên vào rồi đưa cho Xuân Thiên: "Nếm thử xem."
Thực sự là thơm nức mũi, nàng chưa từng ăn món thịt nào như này, vị mặn và vị ngọt theo mỡ tan trong miệng, càng cảm nhận rõ được cái mọng nước của thịt, vừa mềm lại vừa thơm. Nàng bị nóng, thổi phù phù liên tục, Lý Vị lấy túi nước cho nàng, nhẹ nhàng nói: "Coi chừng phỏng."
Lý Vị khéo léo lóc xương thỏ ra khỏi thịt, chia làm hai nửa, một nửa đưa cho Xuân Thiên, Xuân Thiên được ăn ngon, lập tức cúi người thật thấp tỏ lời cảm ơn, cười nói: "Đại gia đúng là lợi hại."
Hai người ăn uống xong, Lý Vị đào hố chôn xương xẩu và chỗ đất dính máu đi. Ngoài ánh lửa có tiếng kêu của côn trùng lẫn chim, bầu trời trăng sáng sao dày đặc, gió đêm buốt lạnh. Hai người ngồi trước đống lửa, Xuân Thiên thẫn thờ hồi lâu, hỏi: "Quân đội là như thế nào ạ?"
Lý Vị không trả lời nàng, chỉ nói một câu: "Trễ rồi, đi ngủ sớm đi, ngày mai phải lên đường sớm đấy."
Nàng gật đầu, người ta nói căng da bụng trùng da mắt, nàng xấp nước cái khăn lau sạch hai má, nằm trong thảm nỉ lim da lim dim. Củi lại được ném vào lửa, phát ra tiếng củi gỗ nứt đôm đốp. Nàng ngẩng đầu lên nhìn Lý Vị, hắn ngồi khoanh chân bên cạnh nàng, bóng hình bao phủ lấy nàng, một chân thoải mái chống lên, cầm túi rượu trong tay uống một hớp. Hắn chăm chú nhìn đống lửa bập bùng, ánh lửa nhảy nhót trên khuôn mặt hắn, chợt sáng chợt tối.
Thế rồi nàng nhắm mắt ngủ, chỉ cần hắn ở đây, là nàng thấy yên tâm.
(còn tiếp)
*Chú thích