Chương 12: Văn nhân các ngươi thật biết chơi
Thư phòng của Tuân Trinh được xây gần nước.
Ngoài cửa sổ có một cái ao, trồng ít hoa sen, đang là đầu Xuân, lá len mới nhú như sừng nhọn, trông tươi đẹp vô cùng.
Gió mang hơi nước lạnh mà ẩm ướt thổ vào phòng, khiến mấy chồng giấy Tuyên Thành trên bàn bay phần phật, suýt nữa thì bay tứ tung.
Vương Uẩn nhanh tay nhanh mắt đè đống giấy lại, cầm cái chặn giấy gỗ đen đè lên, rồi đi đóng cửa sổ lại.
Đóng cửa sổ xong, cô phát hiện có “cá lọt lưới” bay xuống đất.
Cô nhặt lên nhìn thì phát hiện tờ giấy này khác loại với chồng giấy dày trên bàn. Chồng giấy trên bàn là loại giấy Tuyên Thành thượng hạng, trắng mịn nhẵn nhụi, mềm mại mỏng nhẹ, nhưng tờ giấy trên tay cô lại là loại giấy thô màu vàng, vân giấy to, sờ lên thấy thô giáp, thậm chí phía sau còn dính vụn cỏ.
Nó xuất hiện ở đây cho cô cảm giác kỳ lạ khó nói.
Trên tờ giấy chỉ có bốn chữ lớn cứng cáp, gần như chiếm hết cả tờ giấy.
“Uổng công vô ích.”
“Uổng công vô ích sao? Cái gì uổng công cơ?
Vương Uẩn chưa từng thấy chữ của Tuân Trinh, nhưng nhìn chữ này viết ẩu như thế cũng đoán được đây không phải chữ của y. Ai lại viết bốn chữ này cho y mà không ký tên chứ?
Nhìn kỹ thì thấy đây cũng là chữ đẹp, thanh đậm rõ ràng, phóng khoáng xuất trần. Có thể viết được chữ đẹp thế này, không thể nào là người tầm thường được.
Lúc Vương Uẩn đang ngẩn người cầm tờ giấy, Tuân Trinh đã cất sách xong, thản nhiên đi tới.
Tuân Trinh đến gần, khiến Vương Uẩn cảm thấy mình cầm tờ giấy này không hay, mà thả xuống cũng không phải. Cô lúng túng giống như đọc trộm thư của người khác, còn bị người ta bắt tại trận.
Tuân Trinh liếc tờ giấy trong tay cô: “Tiểu hữu cầm…”
Vương Uẩn giao lại tờ giấy cho y: “Vừa rồi cửa sổ mở, gió thổi bay xuống đất, ta đang định để lên bàn.”
Tuân Trinh nhận lấy tờ giấy đó, mỉm cười không để ý: “May có tiểu hữu, ta lớn tuổi rồi, trước khi đi lại quên đóng cửa sổ.”
Vương Uẩn tò mò: “Ai viết cho tiên sinh vậy?”
Tuân Trinh đáp: “Là một người bạn tốt của ta.”
Lại là một người bạn tốt.
Sách y muốn mang về thư phòng cất cũng do bạn tốt cho mượn.
Y có nhiều bạn thật, hơn nữa, chữ viết đều khác nhau một trời một vực.
Vương Uẩn khen một câu khô khan: “Tiên sinh kết giao thật rộng.”
Tuân Trinh đặt tờ giấy xuống bàn: “Hôm qua ngươi có để ý trong tiệc rượu có một vị đạo trưởng không?”
Trong đầu Vương Uẩn nhanh chóng hiện lên hình ảnh của lão đạo sĩ tiên phong đạo cốt kia.
“Là ông ấy sao?”
Hôm qua lão đạo sĩ đó không biết vô tình hay cố ý nhìn cô một cái, khiến cô sợ vội chạy trốn, ấn tượng không thể nói là không sâu được.
“Là hắn.” Tuân Trinh ngồi xuống, rút một tờ giấy viết thư màu đỏ hạnh trên bàn, trải ra: “Nếu tiểu hữu không nhặt lên, ta cũng quên mất không viết thư hồi âm cho hắn, xin tiểu hữu đợi ta một lát.”
Vương Uẩn cũng muốn biết Tuân Trinh sẽ trả lời thế nào: “Được, cũng không vội, tiên sinh cứ từ từ viết.”
Tuân Trinh: “Cảm ơn tiểu hữu đã thông cảm.”
Tuân Trinh trải giấy mài mực, động tác liền mạch, vô cùng thành thạo, Vương Uẩn nhìn thấy cũng vô cùng hưởng thụ.
Tay y hơi gần, khớp xương rõ ràng, cầm thỏi mực áp nhẹ lên nghiên mực, động tác không nhanh không chậm, khẽ đẩy theo phương hướng nhất định, vòng đi vòng lại.
Vương Uẩn nhìn không chớp mắt.
Tuân Trinh vừa mài mực vừa hỏi cô: “Tiểu hữu có thể giúp ta thêm chút nước không?”
Vương Uẩn hoảng hốt: “Ta… Ta không biết….”
Sau khi cô xuyên không tới đã từng học mài mực viết chữ, nhưng cách Tuân Trinh mài mực trông rất đẹp, y chỉ bảo cô thêm nước thôi, cô cũng thấy áp lực như đang múa đao trước mặt Quan công.
Tuân Trinh an ủi cô: “Tiểu hữu đừng căng thẳng, tùy tiện thêm là được, cứ coi như luyện tay đi. Bạn ta không để ý tiểu tiết, dù cả tờ giấy dính đầy mực, hắn cũng có thể làm như không thấy.” Y dừng lại, rồi bất đắc dĩ nói: “Ngươi nhìn tờ giấy hắn viết thư cho ta là biết.”
Cũng phải…
Tờ giấy vàng đó vô cùng thô ráp…
Vương Uẩn gật đầu, vén tay áo dài lên, cầm bình nước mài mực bằng bạch ngọc trên bàn lên, dè dặt đổ chút nước vào nghiên.
Vương Uẩn nghe lời Tuân Trinh, thêm nước cho y, còn tự luyến nghĩ rằng, có phải mình bây giờ cũng tính là mỹ nữ bên cạnh thư sinh đọc sách hay không.
Mặc dù ngoại hình của cô không được bằng Vương Lâm, nhưng cũng không tính là xấu, miễn cưỡng có thể xem là mỹ nữ chứ nhỉ?
Mài mực xong, Vương Uẩn nhìn mực trong nghiên óng ánh, như dầu như sơn, trong lòng có cảm giác vô cùng tự hào.
Tuân Trinh lấy một cây bút từ giá gác bút hình núi non, chấm chút mực, bắt đầu viết.
Cả quá trình, Vương Uẩn luôn đứng xem.
Y viết rất nhanh, tĩnh mạch trên tay lộ ra theo động tác đưa bút của y.
Y vừa hạ bút không lâu đã thu bút lại.
Vương Uẩn tiến lại gần nhìn, lập tức như bị sét đánh vỡ vụn.
Tuân Trinh viết bốn chữ to, nét chữ mạnh mẽ linh hoạt, như bầy nhạn chơi đùa trên biển, rồng cuộn dưới đáy biển, mỗi một nét đều phiêu dật như tiên.
Thư pháp tốt như thế, vậy mà y lại viết bốn chữ: “Bắt chó đi cày.”
Vương Uẩn: “???”
Trước đó hắn ra vẻ trịnh trọng như chuẩn bị sáng tác nghệ thuật, quả thực chênh lệch rất lớn với bốn chữ “bắt chó đi cày” trên giấy, cho Vương Uẩn cảm giác hoang đường không thể nói rõ.
Y đang nhạo báng người gửi thư cho y, xen vào việc của người khác như bắt chó đi cày sao?
Vương Uẩn nhìn Tuân Trinh bằng ánh mắt phức tạp, đám văn nhân các người thật biết chơi.
Trước đó cô rụt rè sợ hãi đi châm nước, chỉ hận không thể châm thêm một giọt lại một giọt, chỉ sợ tay run thêm quá nhiều nước, khi y viết sẽ hỏng.
Tuân Trinh bình tĩnh gác bút lại, xoay người điềm đạm cười nói với Vương Uẩn: “Tiểu hữu đợi lâu rồi.
Vương Uẩn cạn lời mất một hồi: “Tiên sinh khách khí rồi, chỉ một lát thôi, không là gì cả.”
Nhưng một lát này đã đủ để cô mở rộng tầm mắt, y còn biết chơi hài nhạt nữa, viết thư hồi âm nhạo báng bạn mình. Hình tượng Tuân Trinh bây giờ khác với y trong tưởng tượng của cô một vạn tám ngàn dặm. Không biết khi lão đạo sĩ nhận được thư của y sẽ có phản ứng gì, có lẽ sắc mặt sẽ biến đổi khó lường.
Tuân Trinh cất thư hồi âm đi, Vương Uẩn không nhìn được y một mình thu dọn bàn, nên cũng thu dọn giúp.
Có lẽ đã bị hành động vừa rồi của y làm cho cạn lời, Vương Uẩn không yên lòng, lỡ tay làm đổ ống đựng tranh trên bàn.
Cái ống lăn xuống mặt bàn rồi rơi xuống đất, nắp bị văng ra.
Vương Uẩn bất đắc dĩ nhắm mắt lại: “Xin lỗi, ta lỡ tay.”
Thấy Tuân Trinh khom người xuống nhặt ống đựng tranh, Vương Uẩn nào dám để y nhặt, nhanh chóng chạy tới nhặt rồi đưa cho y.
“Không sao, tiểu hữu đừng lo lắng.” Tuân Trinh nhận ống đựng tranh Vương Uẩn đưa cho, không quên an ủi cô.
“Tiên sinh xem có bị hỏng không.” Vương Uẩn thành tâm đề nghị.
“Chắc không có gì đáng ngại.” Tuân Trinh cũng đổ bức tranh ra như lời cô nói, còn cởi sợi dây cột bức tranh.
Cuộn giấy chậm rãi được bày ra, Vương Uẩn nhìn thấy một bức tranh đã ngả vàng.
Tranh vẽ một bờ sông mưa phùn mơ hồ, khói sóng trên sông mênh mông, trời đất một màu giấu chiếc thuyền khách, núi xanh trùng điệp liên miên, đôi chim yến đang sải cánh xuyên qua màn mưa, bay về phía cây dương ngoài bãi bồi.
Trong tranh có ba người đàn ông trẻ tuổi mặc áo tơi, hai người đứng bên bờ sông, một người đứng trên chiếc thuyền dưới tán cây dương.
Một người đàn ông trên bờ là một đạo sĩ trẻ tuổi, gương mặt lạnh lùng, thân người cao thẳng, tay cầm phất trần, gió nhẹ thổi mái tóc tung bay.
Một người đàn ông khác đứng trên bờ trông thấp hai hơn người còn lại, trong sáng cởi mở, trắng trẻo như ngọc, đôi mắt lấp lánh, trông có phần ngây thơ và kiêu ngạo, đang đặt ngang cây sáo ngọc bên miệng mà thổi.
Người đàn ông trên thuyền trông khá thanh tú, gương mặt đẹp đẽ, vẻ mặt thản nhiên, đang chắp tay từ giã đạo sĩ và thanh niên thổi sáo, ống tay áo đón gió, như trăng sáng trên trời, chiếu xuống nhân giang.
Bức tranh này không giống như tranh cổ mà Vương Uẩn nhìn thấy trong sách giáo khoa. Tranh trong sách giáo khoa đều là những ông già mắt đan phượng, dù là tranh mỹ nam tử nổi tiếng lịch sử thì Vương Uẩn cũng không dám khen.
Nhưng bức tranh trước mắt này lại có vẻ giống như Trung – Tây kết hợp, phần bãi bồi bên sông vẽ bằng màu trắng, nét vẽ người lại rất sống động, như thể sẽ bước ra khỏi bức tranh, chắp tay mỉm cười với ngươi.
Không đề cập đến điều này, Vương Uẩn yêu cái đẹp nhìn mà ngu luôn. Tranh quá đẹp, mặc ba người này đều không đẹp được như mỹ thiếu niên trong hôn lễ của cô, nhưng lại tao nhã trí thức, không giống người thường.
Tuân Trinh thấy bức tranh không sao, không nói gì mà nhìn chăm chú một hồi, nét mặt có vẻ như đang hoài niệm.
“Tiên sinh…”
“Ta biết tiểu hữu muốn hỏi cái gì.” Thấy vẻ ngây ngẩn của Vương Uẩn, Tuân Trinh chỉ vào người đàn ông thổi sáo, nói: “Bức tranh này do bạn ta tặng, có lẽ ngươi từng nghe nói tới tên hắn, Lâm Duy Mậu, cũng là người cho ta mượn sách.”
Vương Uẩn có biết Lâm Duy Mậu, là đại quốc thủ nổi tiếng nhất thời này, tranh của ông ấy, ngàn vàng không mua được. Tự của ông ấy là Chinh Miễn, tính cách ông ấy lại là ỷ tài phóng khoáng, phù hợp với cái vẻ kiêu ngạo của người thổi sáo trên bức tranh, cũng phù hợp với mấy chữ to rồng bay phượng múa trên quyển sách kia.
“Hắn chỉ có một con trai, tên Lâm Phi Hoa, cũng là học trò của ta.” Tuân Trinh bổ sung. Như nhớ tới chuyện gì đó buồn cười, khóe miệng y cong lên.
Y chỉ vào đạo sĩ trẻ tuổi: “Người này chính là người ta viết thư hồi âm, Lý Mậu Xung, đạo hiệu Bão Hư Tử.”
“Vậy người trên thuyền…”
Nhìn gương mặt người trên thuyền có chút giống Tuân Trinh, cô có cảm giác quen thuộc mô hình, dù Tuân Trinh không trả lời thì tranh cũng đã miêu tả sinh động.
“Là ta.”
“Năm Nguyên Ninh thứ mười hai, ta ra ngoài nhậm chức, hai người này đội mưa tới tiễn ta. Lúc về, Chinh Miễn vẽ bức tranh này tặng ta, thoáng cái đã hơn ba mươi năm rồi, năm tháng không buông tha ai.” Y nhẹ nhàng cảm thán.
Tuân Trinh nói rất chậm, tiếng chim hót líu lo ngoài nhà phụ họa cho y.
Vương Uẩn yên lặng lắng nghe, như đã trở về năm Nguyên Ninh thứ mười hai, chứng kiến cảnh đưa tiễn bên sông.
Mỹ nhân dễ già, anh cũng cũng đến tuổi xế chiều, ai cũng già thôi, không ai trẻ mãi được. Cho dù là người qua loa, không tim không phổi đến mấy, lúc này cũng sẽ sinh lòng xúc động.
Ngoài cửa sổ có một cái ao, trồng ít hoa sen, đang là đầu Xuân, lá len mới nhú như sừng nhọn, trông tươi đẹp vô cùng.
Gió mang hơi nước lạnh mà ẩm ướt thổ vào phòng, khiến mấy chồng giấy Tuyên Thành trên bàn bay phần phật, suýt nữa thì bay tứ tung.
Vương Uẩn nhanh tay nhanh mắt đè đống giấy lại, cầm cái chặn giấy gỗ đen đè lên, rồi đi đóng cửa sổ lại.
Đóng cửa sổ xong, cô phát hiện có “cá lọt lưới” bay xuống đất.
Cô nhặt lên nhìn thì phát hiện tờ giấy này khác loại với chồng giấy dày trên bàn. Chồng giấy trên bàn là loại giấy Tuyên Thành thượng hạng, trắng mịn nhẵn nhụi, mềm mại mỏng nhẹ, nhưng tờ giấy trên tay cô lại là loại giấy thô màu vàng, vân giấy to, sờ lên thấy thô giáp, thậm chí phía sau còn dính vụn cỏ.
Nó xuất hiện ở đây cho cô cảm giác kỳ lạ khó nói.
Trên tờ giấy chỉ có bốn chữ lớn cứng cáp, gần như chiếm hết cả tờ giấy.
“Uổng công vô ích.”
“Uổng công vô ích sao? Cái gì uổng công cơ?
Vương Uẩn chưa từng thấy chữ của Tuân Trinh, nhưng nhìn chữ này viết ẩu như thế cũng đoán được đây không phải chữ của y. Ai lại viết bốn chữ này cho y mà không ký tên chứ?
Nhìn kỹ thì thấy đây cũng là chữ đẹp, thanh đậm rõ ràng, phóng khoáng xuất trần. Có thể viết được chữ đẹp thế này, không thể nào là người tầm thường được.
Lúc Vương Uẩn đang ngẩn người cầm tờ giấy, Tuân Trinh đã cất sách xong, thản nhiên đi tới.
Tuân Trinh đến gần, khiến Vương Uẩn cảm thấy mình cầm tờ giấy này không hay, mà thả xuống cũng không phải. Cô lúng túng giống như đọc trộm thư của người khác, còn bị người ta bắt tại trận.
Tuân Trinh liếc tờ giấy trong tay cô: “Tiểu hữu cầm…”
Vương Uẩn giao lại tờ giấy cho y: “Vừa rồi cửa sổ mở, gió thổi bay xuống đất, ta đang định để lên bàn.”
Tuân Trinh nhận lấy tờ giấy đó, mỉm cười không để ý: “May có tiểu hữu, ta lớn tuổi rồi, trước khi đi lại quên đóng cửa sổ.”
Vương Uẩn tò mò: “Ai viết cho tiên sinh vậy?”
Tuân Trinh đáp: “Là một người bạn tốt của ta.”
Lại là một người bạn tốt.
Sách y muốn mang về thư phòng cất cũng do bạn tốt cho mượn.
Y có nhiều bạn thật, hơn nữa, chữ viết đều khác nhau một trời một vực.
Vương Uẩn khen một câu khô khan: “Tiên sinh kết giao thật rộng.”
Tuân Trinh đặt tờ giấy xuống bàn: “Hôm qua ngươi có để ý trong tiệc rượu có một vị đạo trưởng không?”
Trong đầu Vương Uẩn nhanh chóng hiện lên hình ảnh của lão đạo sĩ tiên phong đạo cốt kia.
“Là ông ấy sao?”
Hôm qua lão đạo sĩ đó không biết vô tình hay cố ý nhìn cô một cái, khiến cô sợ vội chạy trốn, ấn tượng không thể nói là không sâu được.
“Là hắn.” Tuân Trinh ngồi xuống, rút một tờ giấy viết thư màu đỏ hạnh trên bàn, trải ra: “Nếu tiểu hữu không nhặt lên, ta cũng quên mất không viết thư hồi âm cho hắn, xin tiểu hữu đợi ta một lát.”
Vương Uẩn cũng muốn biết Tuân Trinh sẽ trả lời thế nào: “Được, cũng không vội, tiên sinh cứ từ từ viết.”
Tuân Trinh: “Cảm ơn tiểu hữu đã thông cảm.”
Tuân Trinh trải giấy mài mực, động tác liền mạch, vô cùng thành thạo, Vương Uẩn nhìn thấy cũng vô cùng hưởng thụ.
Tay y hơi gần, khớp xương rõ ràng, cầm thỏi mực áp nhẹ lên nghiên mực, động tác không nhanh không chậm, khẽ đẩy theo phương hướng nhất định, vòng đi vòng lại.
Vương Uẩn nhìn không chớp mắt.
Tuân Trinh vừa mài mực vừa hỏi cô: “Tiểu hữu có thể giúp ta thêm chút nước không?”
Vương Uẩn hoảng hốt: “Ta… Ta không biết….”
Sau khi cô xuyên không tới đã từng học mài mực viết chữ, nhưng cách Tuân Trinh mài mực trông rất đẹp, y chỉ bảo cô thêm nước thôi, cô cũng thấy áp lực như đang múa đao trước mặt Quan công.
Tuân Trinh an ủi cô: “Tiểu hữu đừng căng thẳng, tùy tiện thêm là được, cứ coi như luyện tay đi. Bạn ta không để ý tiểu tiết, dù cả tờ giấy dính đầy mực, hắn cũng có thể làm như không thấy.” Y dừng lại, rồi bất đắc dĩ nói: “Ngươi nhìn tờ giấy hắn viết thư cho ta là biết.”
Cũng phải…
Tờ giấy vàng đó vô cùng thô ráp…
Vương Uẩn gật đầu, vén tay áo dài lên, cầm bình nước mài mực bằng bạch ngọc trên bàn lên, dè dặt đổ chút nước vào nghiên.
Vương Uẩn nghe lời Tuân Trinh, thêm nước cho y, còn tự luyến nghĩ rằng, có phải mình bây giờ cũng tính là mỹ nữ bên cạnh thư sinh đọc sách hay không.
Mặc dù ngoại hình của cô không được bằng Vương Lâm, nhưng cũng không tính là xấu, miễn cưỡng có thể xem là mỹ nữ chứ nhỉ?
Mài mực xong, Vương Uẩn nhìn mực trong nghiên óng ánh, như dầu như sơn, trong lòng có cảm giác vô cùng tự hào.
Tuân Trinh lấy một cây bút từ giá gác bút hình núi non, chấm chút mực, bắt đầu viết.
Cả quá trình, Vương Uẩn luôn đứng xem.
Y viết rất nhanh, tĩnh mạch trên tay lộ ra theo động tác đưa bút của y.
Y vừa hạ bút không lâu đã thu bút lại.
Vương Uẩn tiến lại gần nhìn, lập tức như bị sét đánh vỡ vụn.
Tuân Trinh viết bốn chữ to, nét chữ mạnh mẽ linh hoạt, như bầy nhạn chơi đùa trên biển, rồng cuộn dưới đáy biển, mỗi một nét đều phiêu dật như tiên.
Thư pháp tốt như thế, vậy mà y lại viết bốn chữ: “Bắt chó đi cày.”
Vương Uẩn: “???”
Trước đó hắn ra vẻ trịnh trọng như chuẩn bị sáng tác nghệ thuật, quả thực chênh lệch rất lớn với bốn chữ “bắt chó đi cày” trên giấy, cho Vương Uẩn cảm giác hoang đường không thể nói rõ.
Y đang nhạo báng người gửi thư cho y, xen vào việc của người khác như bắt chó đi cày sao?
Vương Uẩn nhìn Tuân Trinh bằng ánh mắt phức tạp, đám văn nhân các người thật biết chơi.
Trước đó cô rụt rè sợ hãi đi châm nước, chỉ hận không thể châm thêm một giọt lại một giọt, chỉ sợ tay run thêm quá nhiều nước, khi y viết sẽ hỏng.
Tuân Trinh bình tĩnh gác bút lại, xoay người điềm đạm cười nói với Vương Uẩn: “Tiểu hữu đợi lâu rồi.
Vương Uẩn cạn lời mất một hồi: “Tiên sinh khách khí rồi, chỉ một lát thôi, không là gì cả.”
Nhưng một lát này đã đủ để cô mở rộng tầm mắt, y còn biết chơi hài nhạt nữa, viết thư hồi âm nhạo báng bạn mình. Hình tượng Tuân Trinh bây giờ khác với y trong tưởng tượng của cô một vạn tám ngàn dặm. Không biết khi lão đạo sĩ nhận được thư của y sẽ có phản ứng gì, có lẽ sắc mặt sẽ biến đổi khó lường.
Tuân Trinh cất thư hồi âm đi, Vương Uẩn không nhìn được y một mình thu dọn bàn, nên cũng thu dọn giúp.
Có lẽ đã bị hành động vừa rồi của y làm cho cạn lời, Vương Uẩn không yên lòng, lỡ tay làm đổ ống đựng tranh trên bàn.
Cái ống lăn xuống mặt bàn rồi rơi xuống đất, nắp bị văng ra.
Vương Uẩn bất đắc dĩ nhắm mắt lại: “Xin lỗi, ta lỡ tay.”
Thấy Tuân Trinh khom người xuống nhặt ống đựng tranh, Vương Uẩn nào dám để y nhặt, nhanh chóng chạy tới nhặt rồi đưa cho y.
“Không sao, tiểu hữu đừng lo lắng.” Tuân Trinh nhận ống đựng tranh Vương Uẩn đưa cho, không quên an ủi cô.
“Tiên sinh xem có bị hỏng không.” Vương Uẩn thành tâm đề nghị.
“Chắc không có gì đáng ngại.” Tuân Trinh cũng đổ bức tranh ra như lời cô nói, còn cởi sợi dây cột bức tranh.
Cuộn giấy chậm rãi được bày ra, Vương Uẩn nhìn thấy một bức tranh đã ngả vàng.
Tranh vẽ một bờ sông mưa phùn mơ hồ, khói sóng trên sông mênh mông, trời đất một màu giấu chiếc thuyền khách, núi xanh trùng điệp liên miên, đôi chim yến đang sải cánh xuyên qua màn mưa, bay về phía cây dương ngoài bãi bồi.
Trong tranh có ba người đàn ông trẻ tuổi mặc áo tơi, hai người đứng bên bờ sông, một người đứng trên chiếc thuyền dưới tán cây dương.
Một người đàn ông trên bờ là một đạo sĩ trẻ tuổi, gương mặt lạnh lùng, thân người cao thẳng, tay cầm phất trần, gió nhẹ thổi mái tóc tung bay.
Một người đàn ông khác đứng trên bờ trông thấp hai hơn người còn lại, trong sáng cởi mở, trắng trẻo như ngọc, đôi mắt lấp lánh, trông có phần ngây thơ và kiêu ngạo, đang đặt ngang cây sáo ngọc bên miệng mà thổi.
Người đàn ông trên thuyền trông khá thanh tú, gương mặt đẹp đẽ, vẻ mặt thản nhiên, đang chắp tay từ giã đạo sĩ và thanh niên thổi sáo, ống tay áo đón gió, như trăng sáng trên trời, chiếu xuống nhân giang.
Bức tranh này không giống như tranh cổ mà Vương Uẩn nhìn thấy trong sách giáo khoa. Tranh trong sách giáo khoa đều là những ông già mắt đan phượng, dù là tranh mỹ nam tử nổi tiếng lịch sử thì Vương Uẩn cũng không dám khen.
Nhưng bức tranh trước mắt này lại có vẻ giống như Trung – Tây kết hợp, phần bãi bồi bên sông vẽ bằng màu trắng, nét vẽ người lại rất sống động, như thể sẽ bước ra khỏi bức tranh, chắp tay mỉm cười với ngươi.
Không đề cập đến điều này, Vương Uẩn yêu cái đẹp nhìn mà ngu luôn. Tranh quá đẹp, mặc ba người này đều không đẹp được như mỹ thiếu niên trong hôn lễ của cô, nhưng lại tao nhã trí thức, không giống người thường.
Tuân Trinh thấy bức tranh không sao, không nói gì mà nhìn chăm chú một hồi, nét mặt có vẻ như đang hoài niệm.
“Tiên sinh…”
“Ta biết tiểu hữu muốn hỏi cái gì.” Thấy vẻ ngây ngẩn của Vương Uẩn, Tuân Trinh chỉ vào người đàn ông thổi sáo, nói: “Bức tranh này do bạn ta tặng, có lẽ ngươi từng nghe nói tới tên hắn, Lâm Duy Mậu, cũng là người cho ta mượn sách.”
Vương Uẩn có biết Lâm Duy Mậu, là đại quốc thủ nổi tiếng nhất thời này, tranh của ông ấy, ngàn vàng không mua được. Tự của ông ấy là Chinh Miễn, tính cách ông ấy lại là ỷ tài phóng khoáng, phù hợp với cái vẻ kiêu ngạo của người thổi sáo trên bức tranh, cũng phù hợp với mấy chữ to rồng bay phượng múa trên quyển sách kia.
“Hắn chỉ có một con trai, tên Lâm Phi Hoa, cũng là học trò của ta.” Tuân Trinh bổ sung. Như nhớ tới chuyện gì đó buồn cười, khóe miệng y cong lên.
Y chỉ vào đạo sĩ trẻ tuổi: “Người này chính là người ta viết thư hồi âm, Lý Mậu Xung, đạo hiệu Bão Hư Tử.”
“Vậy người trên thuyền…”
Nhìn gương mặt người trên thuyền có chút giống Tuân Trinh, cô có cảm giác quen thuộc mô hình, dù Tuân Trinh không trả lời thì tranh cũng đã miêu tả sinh động.
“Là ta.”
“Năm Nguyên Ninh thứ mười hai, ta ra ngoài nhậm chức, hai người này đội mưa tới tiễn ta. Lúc về, Chinh Miễn vẽ bức tranh này tặng ta, thoáng cái đã hơn ba mươi năm rồi, năm tháng không buông tha ai.” Y nhẹ nhàng cảm thán.
Tuân Trinh nói rất chậm, tiếng chim hót líu lo ngoài nhà phụ họa cho y.
Vương Uẩn yên lặng lắng nghe, như đã trở về năm Nguyên Ninh thứ mười hai, chứng kiến cảnh đưa tiễn bên sông.
Mỹ nhân dễ già, anh cũng cũng đến tuổi xế chiều, ai cũng già thôi, không ai trẻ mãi được. Cho dù là người qua loa, không tim không phổi đến mấy, lúc này cũng sẽ sinh lòng xúc động.