Chương 2
Đáng tiếc hôm đó, Khương Ngộ tay không ra khỏi kiếm khố.
Đại điển đầu xuân giải tán, Khương Hoàng giữ lại một mình Khương Hà, lắc đầu nói:” Đứa nhỏ này, vô duyên với kiếm.”
Khương Hà hoang mang: “Ý của sư tôn chính xác là gì?”
Linh kiếm trong kiếm khố có đến cả ngàn cây, chẳng lẽ Khương Ngộ không thể rút được một thanh nào?
“Mấy ngàn linh kiếm, không một thanh xuất vỏ.” Khương Hoàng nói, sau đó thở dài một tiếng, “Thế gian này, có người trời sinh tiên cốt, cũng có người luồn cúi quỷ đạo, một số người thì từ nhỏ đã có linh căn kỳ dị, bản thân liền không hợp với pháp khí nào đó, dưỡng nữ này của con, có lẽ trời sinh không hợp với kiếm.”
“Sao lại như vậy?” Khương Hà nói, khuôn mặt ôn hoà lộ vẻ lo âu chưa từng có,” Con từng đo căn cốt của con bé, chưa nói tới cực phẩm, nhưng tuyệt đối không có gì bất thường, không thể có chuyện ngay cả chuôi linh kiếm cũng không rút ra nổi.”
Đêm xuân, Mạnh Xuân Điện vắng vẻ, Khương Hoàng thản nhiên nói:” Thiên địa rộng lớn, có bao nhiêu việc cổ quái khó lường, chúng ta dễ gì có thể thăm dò nhân quả? Con là người tu đạo, càng đi về phía trước, càng phải biết kính sợ vô thường, con bé đối nghịch với kiếm đạo, là việc thiên mệnh sắp xếp, đừng cố lội ngược dòng, chi bằng sớm từ bỏ, quay đầu là bờ.”
Khương Hà nắm chặt chuôi kiếm, nét mặt ảm đạm.
Đêm đó, Khương Ngộ cũng không cảm thấy quá khó chịu.
Có lẽ lúc ở trong kiếm khố không rút được thanh kiếm nào, cô đúng là có đau lòng, nhưng mọi sự phiền não đều bị câu nói “nữ nhi của ta” của Khương Hà an ủi.
Đêm đầu xuân, Khương Ngộ cùng Tư Tri Viễn sóng vai đi trên đường núi hướng về Thuỷ Minh Giản, cô vẫn cõng chiếc kiếm gỗ không dính chút linh lực luyện từ năm học vỡ lòng, ánh trăng vằng vặc buông xuống, cô thậm chí còn nhảy chân sáo, khi thì ngắm hoa mận lặng lẽ nở sớm giữa đêm xuân, khi thì lắng tai nghe ve kêu râm ran ven đường.
Từ Tri Viễn không biết có phải cô đang sợ mình lo lắng nên tỏ ra vui vẻ hay không, hắn bỗng nhiên dừng bước, “Kỳ Kỳ, nửa năm sau, ta sẽ xin lão thái quân cho mình đến Tiên Minh lịch luyện.”
Khương Ngộ biết Tiên Minh.
Thế gian này có rất nhiều môn phái tu đạo, những môn phái đó tụ họp lại, liền gọi là Tiên Minh.
Tiên Minh toạ lạc ở Bạn Nguyệt Hải, ban đầu là tổ chức lỏng lẻo, hai mươi năm trước, Vấn Sơn Kiếm Tôn dùng Tố Hoang làm loạn, trong chiến dịch đó, không thể bỏ qua công lao của Tiên Minh. Bây giờ uy vọng Tiên Minh ngày càng lớn mạnh, ngay cả tam đại thế gia cũng muốn đem đệ tự trong tộc đưa đến đó lịch luyện, đó là nơi chúng tiên gia tu tập, nếu như lập công tại tiên minh, tông tộc cũng được thơm lây.
Khương Ngộ quay lại nhìn Từ Tri Viễn, ánh trăng di động trong đôi mắt trong veo, cô cười nói:” Là lẽ đương nhiên, ta kém cỏi như vậy, không thể cạnh tranh cho Thuỷ Minh Giản, huynh ở Tiên Minh kiến công, sư phụ cũng vui mừng.”
Năm đó Khương Ngộ mười lăm tuổi, cập kê.
“Không phải.” Từ Tri Viễn nhìn cô, mãi lâu mới nói:” Ta tới tiên minh, là vì tìm kiếm cho muội.”
“Thiên hạ rộng lớn, ta chắc chắn sẽ tìm một thanh kiếm mà muội có thể rút khỏi vỏ.”
Khương Ngộ hoảng hốt.
Cô nhìn kỹ Từ Tri Viễn hơn, bỗng nhiên nhận ra hắn không còn là thiếu niên choai choai trước kia, mặt mày anh tuấn xuất chúng.
Kỳ quái là hắn vốn không giống Khương Hà, nhưng có lẽ vì sinh hoạt bên nhau thời gian dài, trên người hắn có khí chất sạch sẽ giống hệt ông.
Tim Khương Ngộ thoáng chốc như nổi trống.
Cô nhớ tới mùa xuân năm ngoái, Từ Tri Viễn muốn cô vui vẻ, cõng cô lên lưng, cô ầm ĩ hái quả dướng cả đêm, chim chóc kinh sợ bay tán loạn, nước quả đỏ tươi trét khắp tay cô, cô còn liều mạng bôi chúng lên mặt Từ Tri Viễn.
Lúc này, Khương Ngộ mới bất tri bất giác ý thức được mọi việc không hề ổn chút nào.
Gợn sóng kiếm khố bị gió ấm mùa xuân thổi tung, cuộc sống của Khương Ngộ về sau không thể bình thản trôi qua như trước.
Cô nhẩm tính thời gian, nửa năm sau, sư huynh đến Tiên Minh, nếu như sư phụ ra ngoài cô sẽ tự luyện kiếm một mình, kiếm quyết dù có đọc ngược vẫn trôi chảy, cô sẽ tiếp tục tập luyện bằng thanh kiếm gỗ không có linh lực, cho đến ngày rút kiếm được kiếm khỏi vỏ thì thôi.
Nhưng biến cố luôn xảy đến bất ngờ.
Đêm khuya hai tháng sau đó, Khương Ngộ mồ hôi đầm đìa bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng, cảnh tượng không nhớ rõ ràng, chỉ cảm thấy hoảng hốt khác thường.
Dự cảm của cô luôn rất chuẩn, năm ba tuổi, hôm thôn trang bị yêu thú tập kích, sáng sớm ngủ dậy, cô luôn cảm thấy phải ra ngoài, còn lôi kéo mẹ đi cùng mình, đáng tiếc mẹ không chịu, nếu mẹ nghe cô thì đã có thể tránh khỏi một kiếp.
Khương Ngộ vô thức nhìn ra ngoài cửa sổ, đêm tối không một tiếng động, cô nhẹ nhàng thở hắt, tưởng rằng mình nghĩ nhiều, định nằm ngủ tiếp, bên ngoài bỗng nhiên vang lên tiếng gõ cửa dồn dập.
Khương Ngộ chưa hoàn toàn tỉnh táo, theo bản năng khoác áo xông ra khỏi phòng, liền trông thấy Từ Tri Viễn dìu Khương Hà máu me khắp người trở về.
Khương Ngộ tỉnh mộng trong chớp mắt, sau tích tắc, cô bình tĩnh ngoài dự liệu, chân trần chạy ra ngoài, “Ta đi mời lão thái quân!”
Còn chưa kịp đi ra ngoài, cô bị Khương Hà kéo trở lại.
Hắn vẫn dựa vào đầu vài Từ Tri Viễn, hai mắt nhắm nghiền, thanh âm thều thào: “Không kịp nữa rồi, con đi theo ta, ta có việc… muốn dặn dò…”
Từ Tri Viễn sắp xếp cho Khương Hà nằm lên giường.
Người Khương Hà bị xuyên thủng, vết thương dữ tợn, máu cùng thanh y dính chặt vào nhau, da thịt bầy nhầy, có nhiều chỗ có dấu hiệu biến thành màu đen.
Khương Ngộ gần như tay chân cuống quýt, xé quần áo giúp hắn, vết thương bộc lộ, cô chẳng dám nghĩ tới câu nói “không kịp nữa rồi” của Khương Hà đến tột cũng là có ý gì.
Cô chỉ chăm chăm nghĩ tới việc phải bôi thuốc, thời điểm cô ôm đủ loại chai lọ lấy từ tủ thuốc ra, tay vẫn run lẩy bẩy, răng cắn vào môi tạo nên vết hằn thật sâu.
Cô rơi lệ, nhưng cô vẫn tận lực vỗ về bản thân để mình trấn định hơn, cô hỏi, “Sư phụ, là ai đả thương người thành thế này?”
Khương Hà không trả lời, đè đôi bàn tay đang run rẩy của cô, sau đó sai Từ Tri Viễn, “Tới… tủ gỗ của ta, mang chiếc hộp bên trong ra đây.”
Trong hộp có hai miếng ngọc giác hình bán nguyệt.
Khương Hà đưa một khối ngọc giác cho Khương Ngộ, còn một khối khác cho Từ Tri Viễn, nói:” Tri Viễn, con là sư huynh, từ nay về sau, phải chăm sóc Kỳ Kỳ, đối xử thật tốt với con bé… các con không chỉ là sư huynh muội, còn là… người một nhà.”
Ngọc giác vốn một đôi, hai nửa chung một chỗ mới hợp thành một vòng tròn hoàn chỉnh.
Từ Tri Viễn nhận ngọc giác, liếc nhìn Khương Ngộ, gật đầu nói:” Đệ tử hiểu rồi, sư phụ yên tâm.”
Khương Ngộ quá đau đớn, cô không kịp suy nghĩ mình cùng sư huynh mỗi người cầm một nửa ngọc giác là có nghĩa gì, chỉ không ngừng hỏi, “Sư phụ, ngài không phải là tiên nhân sao? Sao ngài lại bị thương nặng như vậy? Có phải do đan dược Thuỷ Minh Giản không tốt? Con có thể đi tới đan phòng xin thuốc, hoặc đến chỗ lão thái quân xin thuốc, không được nữa, ta đi Bạn Nguyệt Hải, tam đại thế gia… Sư phụ, người không thể chữa thương cho mình sao? Con, con truyền hết linh lực của mình cho người nhé…”
Linh lực ít ót tụ thành sương mù nhạt như khói trong lòng bàn tay cô, Khương Hà nhìn, không nhịn được cười.
Hắn nói:” Đứa nhỏ ngốc, danh xưng tiên nhân, chẳng qua là mơ ước cao xa của người tu đạo, tự đặt cho mình, nhân gian có quy chế của nhân gian, người nào có thể chân chính thành tiên? Nói cho cùng, chúng ta chẳng qua đã phá vỡ rào cản sống lâu và đi xa hơn một chút, ai thực sự có thể thọ cùng trời đất chứ?”
“Con biết đó, ta có bệnh cũ, cho nên ngoại trừ Tri Viễn, ta vẫn không chịu nhận thêm đệ tử, lo lắng mình sống không lâu, sau này không thể chăm sóc, chỉ có con… là ngoại lệ… có một việc ta vẫn không nói cho con. Thôn trang con bị tập kích lúc trước, ta vốn có thể tới sớm hơn, cứu tất cả mọi người trong thôn trang, nhưng bởi vì lý do riêng, chậm trễ chút thời gian, có thể nói là ta hại con… cơ khổ không nơi nương tựa. Lúc ấy ta đã nghĩ, đứa nhóc này, ta có lỗi với nó, từ nay về sau, ta là cha của Kỳ Kỳ… Ta vốn cho rằng mình có thể chăm sóc con lâu hơn, chỉ không ngờ, lại nhanh như vậy…”
Hắn nói, khó nhọc nâng ống tay áo, lau nước mắt cho Khương Ngộ.
Ống tay áo không còn giống lần đầu tiên gặp mặt năm ấy, nó rất bẩn, dính đầy máu, điều duy nhất không đổi, trên đó đọng lại vệt nước mắt của Kỳ Kỳ.
“Đừng khóc…” Khương Hà nói, “Lần đầu tiên ta thấy con, con cũng đang khóc nhè, mắt lớn chừng này, sao giờ vẫn giống lúc còn bé nhỉ…”
“Cả cuộc đời này, ta đều đã tính toán tường tận đến tận ngày hôm nay, duy chỉ không an lòng với con, cùng…”
Khương Ngộ không thể nghe mấy chữ cuối cùng Khương Hà nói, hay do Khương Hà không muốn nói nên đã dùng tiếng thở dài át nó đi.
Không ai nói với Khương Ngộ, người tu đạo qua đời, thi thể sẽ không tồn tại lâu.
Dù sao thân thể bán tiên, mặc dù không thể đột phá rào cản, cũng đã thực sự đi quá xa bên trong bức tường vây, đặt một chân vào cấm địa mà phàm nhân không thể tới, cho nên thi thể sẽ không chậm rãi hư thối mà sẽ vũ hoá.
Chỉ vũ hoá, không thành tiên.
Khương Ngộ trơ mắt nhìn thân thể Khương Hà hoá thành từng luồng sáng, tiêu tán từng chút một, cô khóc khàn cả tiếng, liều mạng giữ lại, nằm bò trên giường, ngoại trừ thanh bội kiếm mất chủ, chẳng còn cái gì lưu lại.
Nửa tháng sau, Khương Ngộ và Từ Tri Viễn cũng nhau hạ táng cho Khương Hà, bên trong mộ là bội kiếm của Khương Hà.
Lại nửa năm sau, Từ Tri Viễn từ biệt Khương Ngộ, đi tiên minh tìm kiếm.
Sắp chia tay, hắn xoa đầu Khương Ngộ, nhẹ giọng căn dặn: “Trông coi Thuỷ Minh Giản cho kỹ, nơi này là nhà của chúng ta.”
Vốn là động phủ ba người, giờ biến thành một người coi giữ.
Khương Ngộ vẫn như lúc trước, sáng sớm luyện kiếm, chiều ngâm kiếm quyết, hàng ngày đều quét dọn sạch sẽ phòng Khương Hà, đi đến bên mộ hắn, ngồi ngắm trăng và sao trời.
Dần dà, khi cô đeo kiếm gỗ đi trên đường núi, sẽ nghe thấy tiếng xì xèo nho nhỏ —
“Rõ ràng ngay cả kiếm còn không rút ra nổi, một mình chiếm cứ Thuỷ Minh Giản, dựa vào đâu chứ?”
“Linh khí Huy Sơn hữu hạn, cô ta một mình một linh mạch, quá bất công?”
“Chẳng qua chỉ là dưỡng nữ, lại chiếm thân phận tam tiểu thư Khương gia, nực cười chưa?”
Kỳ thật lời bàn tán này lúc trước cũng có, chỉ là khi đó Khương Hà vẫn còn, nó không truyền được đến tai cô.
Giờ Khương Hà đã mất, Từ Tri Viễn cũng rời đi, lâu dần, họ nói lời khó nghe chẳng cần kiêng nể.
Tuổi nhỏ sao giữ vững được lập trường núi sừng sững mặc mưa táp gió vần, tin đồn ngày càng nhiều, kiểu gì cũng sẽ cảm thấy uất ức, nhưng Khương Ngộ nhịn được, cô chỉ muốn trông coi Thuỷ Minh Giản cho tốt.
Tận đến một ngày, cô nghe thấy có người nói:” Đại sư bá tự mình dạy, cô ta chẳng phải như kẻ vô dụng sao.”
” Trò không giỏi, thầy tất biếng nhác, nói không chừng không phải đồ đệ vô dụng, là sư phụ không có tài”
Đêm đó, Khương Ngộ thức trắng.
Cái gì cô cũng không sợ, chỉ sợ làm xấu mặt Khương Hà.
Họ nói xấu Khương Hà, dù cô chỉ nghe được một chữ cũng cảm thấy đau khổ không thôi.
Nhưng cô không rút được kiếm, Từ Tri Viễn cũng đã đi, cô nên xin người nào dạy dỗ, chỉ điểm?
Khương Ngộ suy nghĩ suốt đêm, sáng sớm hôm sau, cô nhẹ nhàng gài then cửa Thuỷ Minh Giản, cõng bọc hành lý cùng kiếm gỗ đi tới “Minh Nguyệt Nhai”
Nơi này là động phủ của Khương Dục Hoành, hắn là sư đệ của Khương Hà, nhị đệ tử của Khương Hoàng.
Không giống Khương Hà, Khương Dục Hoành đã cưới vợ từ sớm, dưới gối có ba đứa con, môn hạ đông đảo, cho nên Minh Nguyệt Nhai lớn hơn Thuỷ Minh Giản rất nhiều.
Khương Ngộ đứng bên ngoài cấm chế Minh Nguyệt Nhai, cắn môi, nói lớn: “Đệ tử Khương Ngộ, thỉnh cầu sư thúc chỉ điểm kiếm thuật.”
Không bao lâu, cấm chế giải trừ, Khương Dục Hoành nhìn Khương Ngộ nửa ngày, hít một tiếng: “Cũng đáng thương, vào đi.”
Hắn dẫn cô đến chính đường, ngồi xuống ghế cao nhất, nói:” Ngươi là dưỡng nữ… của sư huynh, ta liền không thể cho ngươi bái sư chính thức, ngươi vẫn nên như trước, gọi ta một tiếng sư thúc là đủ. Chỉ là ngươi đã để ta chỉ điểm kiếm thuật, chính là nhập môn hạ của ta, chúng ta có quy củ mà ngươi nhất định phải tuân thủ, không có bất kỳ ngoại lệ, từ hôm nay trở đi, ngươi liền cùng các đệ tử khác ở tại căn nhà đệ tử, mỗi ngày mặt trời lên phải học bài tập sáng, ngươi nghe rõ chưa, có gì thắc mắc không?”
Khương Ngộ lắc đầu, sau đó cong người: “Khẩn cầu sư thúc, cho phép con, cứ bảy ngày về Thuỷ Minh Giản một lần.”
Cô mím môi, “Con chỉ về đó quét dọn, thăm sư phụ một lát, chạng váng tối nhất định sẽ trở về, tuyệt đối không chậm trễ việc tu luyện.”
Cứ như vậy, Khương Ngộ bước vào cuộc sống sinh hoạt ở Minh Nguyệt Nhai.
Cô sống cũng chẳng tính là an ổn.
Nơi này, đồng môn không thích cô, không đơn thuần chỉ vì trước đó cô được Khương Hà yêu thương hết mực, vốn cùng nhau tu đạo, tất cả mọi người đều gọi Khương Dục Hoành là sư phụ, cô lại kêu sư thúc, mọi người nghe lệnh không ra khỏi Minh Nguyệt Nhai, cô cứ bảy ngày có thể về Thủy Minh Giản, huống chi, cô học kiếm hơn mười năm, ngay cả linh kiếm cũng không rút ra nổi, ai sẽ thích kẻ khác biệt không có bản lãnh chứ?
Lại một năm, xuân đi đông đến, một năm vất vả cuối cùng đã qua, sắp sửa tới ngày chọn kiếm của Minh Nguyệt Nhai.
Khác với Thủy Minh Giản, đệ tử Minh Nguyệt Nhai rất đông, cho nên hàng năm chỉ có thể chọn kiếm vào thời gian đặc biệt.
Khương Dục Hoành ấn định thời gian này tại tiết Tiểu Tuyết, đệ tử chọn linh kiếm tốt, còn có thể tranh một suất làm người thủ sơn trước xuân tế.
Trong sân viện rộng lớn, mấy chục thanh linh kiếm xếp một hàng trên hương án, đệ tử Minh Nguyệt Nhai từng người một bước lên trước, đệ tử chọn được linh kiếm tốt mừng rỡ như điên, không muốn rời tay bội kiếm yêu quý của mình, kẻ không thành công mặc dù hơi nhụt chí nhưng không thất vọng vì phần lớn bọn họ luôn lười biếng trong giờ luyện công hàng ngày, tự an ủi mình năm sau chăm chỉ hơn là được.
Đến phiên Khương Ngộ, cô từng bước đi đến trước hương án, chuẩn bị niệm kiếm dẫn quyết.
Xung quanh râm ran tiếng cười trộm, có lẽ đang chờ coi màn kịch hay do cô diễn, Khương Ngộ nhắm mắt, ép mình không cần để ý.
Năm nay Khương Ngộ mười bảy tuổi, bắt đầu từ ba năm trước, cô đã chọn kiếm vô số lần.
Cô biết mình thiên tư không tốt, nhưng lại không muốn làm cho Khương Hà mất mặt, hơn năm nay, cô gần như lật tất cả các sách có liên quan đến kiếm trong thư khố Thủy Minh Giản, rốt cuộc cũng tìm được một biện pháp nguy hiểm nhưng cũng không đến mức đáng sợ.
Ghi rằng, vào thời điểm nguy cấp, nội lực bị phong bế, người dùng không thể rút kiếm — nội lực bị kìm hãm, có thể dùng chút linh lực còn sót lại đánh lên thân kiếm, sau đó cho linh lực bám vào kiếm khí rồi cưỡng ép thu về, đồng thời niệm kiếm dẫn quyết để linh lực đi khắp bách hải một vòng nhỏ, có thể phá vỡ xiềng xích bó buộc.
Khương Ngộ đọc kiếm dẫn quyết một lần, linh kiếm vẫn như thường ngày, không một thanh rời khỏi vỏ.
Đọc tiếp, vẫn vậy.
Khương Ngộ di chân tại chỗ một lát, rốt cuộc quyết định, cô lại nhắm mắt lần nữa, linh lực như sương từ lòng bàn tay tràn ra, rơi vào thân linh kiếm gần nhất, cướp lấy kiếm khí bốn phía.
Bốn bề yên lặng, các dồng môn không biết cô đang làm gì, vừa sợ vừa nghi ngờ mà chăm chú dõi theo cô.
Ngay lúc tất cả mọi người định coi đó là một trò cười, linh kiếm đặt trên hương án bỗng chấn động!
Đại điển đầu xuân giải tán, Khương Hoàng giữ lại một mình Khương Hà, lắc đầu nói:” Đứa nhỏ này, vô duyên với kiếm.”
Khương Hà hoang mang: “Ý của sư tôn chính xác là gì?”
Linh kiếm trong kiếm khố có đến cả ngàn cây, chẳng lẽ Khương Ngộ không thể rút được một thanh nào?
“Mấy ngàn linh kiếm, không một thanh xuất vỏ.” Khương Hoàng nói, sau đó thở dài một tiếng, “Thế gian này, có người trời sinh tiên cốt, cũng có người luồn cúi quỷ đạo, một số người thì từ nhỏ đã có linh căn kỳ dị, bản thân liền không hợp với pháp khí nào đó, dưỡng nữ này của con, có lẽ trời sinh không hợp với kiếm.”
“Sao lại như vậy?” Khương Hà nói, khuôn mặt ôn hoà lộ vẻ lo âu chưa từng có,” Con từng đo căn cốt của con bé, chưa nói tới cực phẩm, nhưng tuyệt đối không có gì bất thường, không thể có chuyện ngay cả chuôi linh kiếm cũng không rút ra nổi.”
Đêm xuân, Mạnh Xuân Điện vắng vẻ, Khương Hoàng thản nhiên nói:” Thiên địa rộng lớn, có bao nhiêu việc cổ quái khó lường, chúng ta dễ gì có thể thăm dò nhân quả? Con là người tu đạo, càng đi về phía trước, càng phải biết kính sợ vô thường, con bé đối nghịch với kiếm đạo, là việc thiên mệnh sắp xếp, đừng cố lội ngược dòng, chi bằng sớm từ bỏ, quay đầu là bờ.”
Khương Hà nắm chặt chuôi kiếm, nét mặt ảm đạm.
Đêm đó, Khương Ngộ cũng không cảm thấy quá khó chịu.
Có lẽ lúc ở trong kiếm khố không rút được thanh kiếm nào, cô đúng là có đau lòng, nhưng mọi sự phiền não đều bị câu nói “nữ nhi của ta” của Khương Hà an ủi.
Đêm đầu xuân, Khương Ngộ cùng Tư Tri Viễn sóng vai đi trên đường núi hướng về Thuỷ Minh Giản, cô vẫn cõng chiếc kiếm gỗ không dính chút linh lực luyện từ năm học vỡ lòng, ánh trăng vằng vặc buông xuống, cô thậm chí còn nhảy chân sáo, khi thì ngắm hoa mận lặng lẽ nở sớm giữa đêm xuân, khi thì lắng tai nghe ve kêu râm ran ven đường.
Từ Tri Viễn không biết có phải cô đang sợ mình lo lắng nên tỏ ra vui vẻ hay không, hắn bỗng nhiên dừng bước, “Kỳ Kỳ, nửa năm sau, ta sẽ xin lão thái quân cho mình đến Tiên Minh lịch luyện.”
Khương Ngộ biết Tiên Minh.
Thế gian này có rất nhiều môn phái tu đạo, những môn phái đó tụ họp lại, liền gọi là Tiên Minh.
Tiên Minh toạ lạc ở Bạn Nguyệt Hải, ban đầu là tổ chức lỏng lẻo, hai mươi năm trước, Vấn Sơn Kiếm Tôn dùng Tố Hoang làm loạn, trong chiến dịch đó, không thể bỏ qua công lao của Tiên Minh. Bây giờ uy vọng Tiên Minh ngày càng lớn mạnh, ngay cả tam đại thế gia cũng muốn đem đệ tự trong tộc đưa đến đó lịch luyện, đó là nơi chúng tiên gia tu tập, nếu như lập công tại tiên minh, tông tộc cũng được thơm lây.
Khương Ngộ quay lại nhìn Từ Tri Viễn, ánh trăng di động trong đôi mắt trong veo, cô cười nói:” Là lẽ đương nhiên, ta kém cỏi như vậy, không thể cạnh tranh cho Thuỷ Minh Giản, huynh ở Tiên Minh kiến công, sư phụ cũng vui mừng.”
Năm đó Khương Ngộ mười lăm tuổi, cập kê.
“Không phải.” Từ Tri Viễn nhìn cô, mãi lâu mới nói:” Ta tới tiên minh, là vì tìm kiếm cho muội.”
“Thiên hạ rộng lớn, ta chắc chắn sẽ tìm một thanh kiếm mà muội có thể rút khỏi vỏ.”
Khương Ngộ hoảng hốt.
Cô nhìn kỹ Từ Tri Viễn hơn, bỗng nhiên nhận ra hắn không còn là thiếu niên choai choai trước kia, mặt mày anh tuấn xuất chúng.
Kỳ quái là hắn vốn không giống Khương Hà, nhưng có lẽ vì sinh hoạt bên nhau thời gian dài, trên người hắn có khí chất sạch sẽ giống hệt ông.
Tim Khương Ngộ thoáng chốc như nổi trống.
Cô nhớ tới mùa xuân năm ngoái, Từ Tri Viễn muốn cô vui vẻ, cõng cô lên lưng, cô ầm ĩ hái quả dướng cả đêm, chim chóc kinh sợ bay tán loạn, nước quả đỏ tươi trét khắp tay cô, cô còn liều mạng bôi chúng lên mặt Từ Tri Viễn.
Lúc này, Khương Ngộ mới bất tri bất giác ý thức được mọi việc không hề ổn chút nào.
Gợn sóng kiếm khố bị gió ấm mùa xuân thổi tung, cuộc sống của Khương Ngộ về sau không thể bình thản trôi qua như trước.
Cô nhẩm tính thời gian, nửa năm sau, sư huynh đến Tiên Minh, nếu như sư phụ ra ngoài cô sẽ tự luyện kiếm một mình, kiếm quyết dù có đọc ngược vẫn trôi chảy, cô sẽ tiếp tục tập luyện bằng thanh kiếm gỗ không có linh lực, cho đến ngày rút kiếm được kiếm khỏi vỏ thì thôi.
Nhưng biến cố luôn xảy đến bất ngờ.
Đêm khuya hai tháng sau đó, Khương Ngộ mồ hôi đầm đìa bừng tỉnh khỏi cơn ác mộng, cảnh tượng không nhớ rõ ràng, chỉ cảm thấy hoảng hốt khác thường.
Dự cảm của cô luôn rất chuẩn, năm ba tuổi, hôm thôn trang bị yêu thú tập kích, sáng sớm ngủ dậy, cô luôn cảm thấy phải ra ngoài, còn lôi kéo mẹ đi cùng mình, đáng tiếc mẹ không chịu, nếu mẹ nghe cô thì đã có thể tránh khỏi một kiếp.
Khương Ngộ vô thức nhìn ra ngoài cửa sổ, đêm tối không một tiếng động, cô nhẹ nhàng thở hắt, tưởng rằng mình nghĩ nhiều, định nằm ngủ tiếp, bên ngoài bỗng nhiên vang lên tiếng gõ cửa dồn dập.
Khương Ngộ chưa hoàn toàn tỉnh táo, theo bản năng khoác áo xông ra khỏi phòng, liền trông thấy Từ Tri Viễn dìu Khương Hà máu me khắp người trở về.
Khương Ngộ tỉnh mộng trong chớp mắt, sau tích tắc, cô bình tĩnh ngoài dự liệu, chân trần chạy ra ngoài, “Ta đi mời lão thái quân!”
Còn chưa kịp đi ra ngoài, cô bị Khương Hà kéo trở lại.
Hắn vẫn dựa vào đầu vài Từ Tri Viễn, hai mắt nhắm nghiền, thanh âm thều thào: “Không kịp nữa rồi, con đi theo ta, ta có việc… muốn dặn dò…”
Từ Tri Viễn sắp xếp cho Khương Hà nằm lên giường.
Người Khương Hà bị xuyên thủng, vết thương dữ tợn, máu cùng thanh y dính chặt vào nhau, da thịt bầy nhầy, có nhiều chỗ có dấu hiệu biến thành màu đen.
Khương Ngộ gần như tay chân cuống quýt, xé quần áo giúp hắn, vết thương bộc lộ, cô chẳng dám nghĩ tới câu nói “không kịp nữa rồi” của Khương Hà đến tột cũng là có ý gì.
Cô chỉ chăm chăm nghĩ tới việc phải bôi thuốc, thời điểm cô ôm đủ loại chai lọ lấy từ tủ thuốc ra, tay vẫn run lẩy bẩy, răng cắn vào môi tạo nên vết hằn thật sâu.
Cô rơi lệ, nhưng cô vẫn tận lực vỗ về bản thân để mình trấn định hơn, cô hỏi, “Sư phụ, là ai đả thương người thành thế này?”
Khương Hà không trả lời, đè đôi bàn tay đang run rẩy của cô, sau đó sai Từ Tri Viễn, “Tới… tủ gỗ của ta, mang chiếc hộp bên trong ra đây.”
Trong hộp có hai miếng ngọc giác hình bán nguyệt.
Khương Hà đưa một khối ngọc giác cho Khương Ngộ, còn một khối khác cho Từ Tri Viễn, nói:” Tri Viễn, con là sư huynh, từ nay về sau, phải chăm sóc Kỳ Kỳ, đối xử thật tốt với con bé… các con không chỉ là sư huynh muội, còn là… người một nhà.”
Ngọc giác vốn một đôi, hai nửa chung một chỗ mới hợp thành một vòng tròn hoàn chỉnh.
Từ Tri Viễn nhận ngọc giác, liếc nhìn Khương Ngộ, gật đầu nói:” Đệ tử hiểu rồi, sư phụ yên tâm.”
Khương Ngộ quá đau đớn, cô không kịp suy nghĩ mình cùng sư huynh mỗi người cầm một nửa ngọc giác là có nghĩa gì, chỉ không ngừng hỏi, “Sư phụ, ngài không phải là tiên nhân sao? Sao ngài lại bị thương nặng như vậy? Có phải do đan dược Thuỷ Minh Giản không tốt? Con có thể đi tới đan phòng xin thuốc, hoặc đến chỗ lão thái quân xin thuốc, không được nữa, ta đi Bạn Nguyệt Hải, tam đại thế gia… Sư phụ, người không thể chữa thương cho mình sao? Con, con truyền hết linh lực của mình cho người nhé…”
Linh lực ít ót tụ thành sương mù nhạt như khói trong lòng bàn tay cô, Khương Hà nhìn, không nhịn được cười.
Hắn nói:” Đứa nhỏ ngốc, danh xưng tiên nhân, chẳng qua là mơ ước cao xa của người tu đạo, tự đặt cho mình, nhân gian có quy chế của nhân gian, người nào có thể chân chính thành tiên? Nói cho cùng, chúng ta chẳng qua đã phá vỡ rào cản sống lâu và đi xa hơn một chút, ai thực sự có thể thọ cùng trời đất chứ?”
“Con biết đó, ta có bệnh cũ, cho nên ngoại trừ Tri Viễn, ta vẫn không chịu nhận thêm đệ tử, lo lắng mình sống không lâu, sau này không thể chăm sóc, chỉ có con… là ngoại lệ… có một việc ta vẫn không nói cho con. Thôn trang con bị tập kích lúc trước, ta vốn có thể tới sớm hơn, cứu tất cả mọi người trong thôn trang, nhưng bởi vì lý do riêng, chậm trễ chút thời gian, có thể nói là ta hại con… cơ khổ không nơi nương tựa. Lúc ấy ta đã nghĩ, đứa nhóc này, ta có lỗi với nó, từ nay về sau, ta là cha của Kỳ Kỳ… Ta vốn cho rằng mình có thể chăm sóc con lâu hơn, chỉ không ngờ, lại nhanh như vậy…”
Hắn nói, khó nhọc nâng ống tay áo, lau nước mắt cho Khương Ngộ.
Ống tay áo không còn giống lần đầu tiên gặp mặt năm ấy, nó rất bẩn, dính đầy máu, điều duy nhất không đổi, trên đó đọng lại vệt nước mắt của Kỳ Kỳ.
“Đừng khóc…” Khương Hà nói, “Lần đầu tiên ta thấy con, con cũng đang khóc nhè, mắt lớn chừng này, sao giờ vẫn giống lúc còn bé nhỉ…”
“Cả cuộc đời này, ta đều đã tính toán tường tận đến tận ngày hôm nay, duy chỉ không an lòng với con, cùng…”
Khương Ngộ không thể nghe mấy chữ cuối cùng Khương Hà nói, hay do Khương Hà không muốn nói nên đã dùng tiếng thở dài át nó đi.
Không ai nói với Khương Ngộ, người tu đạo qua đời, thi thể sẽ không tồn tại lâu.
Dù sao thân thể bán tiên, mặc dù không thể đột phá rào cản, cũng đã thực sự đi quá xa bên trong bức tường vây, đặt một chân vào cấm địa mà phàm nhân không thể tới, cho nên thi thể sẽ không chậm rãi hư thối mà sẽ vũ hoá.
Chỉ vũ hoá, không thành tiên.
Khương Ngộ trơ mắt nhìn thân thể Khương Hà hoá thành từng luồng sáng, tiêu tán từng chút một, cô khóc khàn cả tiếng, liều mạng giữ lại, nằm bò trên giường, ngoại trừ thanh bội kiếm mất chủ, chẳng còn cái gì lưu lại.
Nửa tháng sau, Khương Ngộ và Từ Tri Viễn cũng nhau hạ táng cho Khương Hà, bên trong mộ là bội kiếm của Khương Hà.
Lại nửa năm sau, Từ Tri Viễn từ biệt Khương Ngộ, đi tiên minh tìm kiếm.
Sắp chia tay, hắn xoa đầu Khương Ngộ, nhẹ giọng căn dặn: “Trông coi Thuỷ Minh Giản cho kỹ, nơi này là nhà của chúng ta.”
Vốn là động phủ ba người, giờ biến thành một người coi giữ.
Khương Ngộ vẫn như lúc trước, sáng sớm luyện kiếm, chiều ngâm kiếm quyết, hàng ngày đều quét dọn sạch sẽ phòng Khương Hà, đi đến bên mộ hắn, ngồi ngắm trăng và sao trời.
Dần dà, khi cô đeo kiếm gỗ đi trên đường núi, sẽ nghe thấy tiếng xì xèo nho nhỏ —
“Rõ ràng ngay cả kiếm còn không rút ra nổi, một mình chiếm cứ Thuỷ Minh Giản, dựa vào đâu chứ?”
“Linh khí Huy Sơn hữu hạn, cô ta một mình một linh mạch, quá bất công?”
“Chẳng qua chỉ là dưỡng nữ, lại chiếm thân phận tam tiểu thư Khương gia, nực cười chưa?”
Kỳ thật lời bàn tán này lúc trước cũng có, chỉ là khi đó Khương Hà vẫn còn, nó không truyền được đến tai cô.
Giờ Khương Hà đã mất, Từ Tri Viễn cũng rời đi, lâu dần, họ nói lời khó nghe chẳng cần kiêng nể.
Tuổi nhỏ sao giữ vững được lập trường núi sừng sững mặc mưa táp gió vần, tin đồn ngày càng nhiều, kiểu gì cũng sẽ cảm thấy uất ức, nhưng Khương Ngộ nhịn được, cô chỉ muốn trông coi Thuỷ Minh Giản cho tốt.
Tận đến một ngày, cô nghe thấy có người nói:” Đại sư bá tự mình dạy, cô ta chẳng phải như kẻ vô dụng sao.”
” Trò không giỏi, thầy tất biếng nhác, nói không chừng không phải đồ đệ vô dụng, là sư phụ không có tài”
Đêm đó, Khương Ngộ thức trắng.
Cái gì cô cũng không sợ, chỉ sợ làm xấu mặt Khương Hà.
Họ nói xấu Khương Hà, dù cô chỉ nghe được một chữ cũng cảm thấy đau khổ không thôi.
Nhưng cô không rút được kiếm, Từ Tri Viễn cũng đã đi, cô nên xin người nào dạy dỗ, chỉ điểm?
Khương Ngộ suy nghĩ suốt đêm, sáng sớm hôm sau, cô nhẹ nhàng gài then cửa Thuỷ Minh Giản, cõng bọc hành lý cùng kiếm gỗ đi tới “Minh Nguyệt Nhai”
Nơi này là động phủ của Khương Dục Hoành, hắn là sư đệ của Khương Hà, nhị đệ tử của Khương Hoàng.
Không giống Khương Hà, Khương Dục Hoành đã cưới vợ từ sớm, dưới gối có ba đứa con, môn hạ đông đảo, cho nên Minh Nguyệt Nhai lớn hơn Thuỷ Minh Giản rất nhiều.
Khương Ngộ đứng bên ngoài cấm chế Minh Nguyệt Nhai, cắn môi, nói lớn: “Đệ tử Khương Ngộ, thỉnh cầu sư thúc chỉ điểm kiếm thuật.”
Không bao lâu, cấm chế giải trừ, Khương Dục Hoành nhìn Khương Ngộ nửa ngày, hít một tiếng: “Cũng đáng thương, vào đi.”
Hắn dẫn cô đến chính đường, ngồi xuống ghế cao nhất, nói:” Ngươi là dưỡng nữ… của sư huynh, ta liền không thể cho ngươi bái sư chính thức, ngươi vẫn nên như trước, gọi ta một tiếng sư thúc là đủ. Chỉ là ngươi đã để ta chỉ điểm kiếm thuật, chính là nhập môn hạ của ta, chúng ta có quy củ mà ngươi nhất định phải tuân thủ, không có bất kỳ ngoại lệ, từ hôm nay trở đi, ngươi liền cùng các đệ tử khác ở tại căn nhà đệ tử, mỗi ngày mặt trời lên phải học bài tập sáng, ngươi nghe rõ chưa, có gì thắc mắc không?”
Khương Ngộ lắc đầu, sau đó cong người: “Khẩn cầu sư thúc, cho phép con, cứ bảy ngày về Thuỷ Minh Giản một lần.”
Cô mím môi, “Con chỉ về đó quét dọn, thăm sư phụ một lát, chạng váng tối nhất định sẽ trở về, tuyệt đối không chậm trễ việc tu luyện.”
Cứ như vậy, Khương Ngộ bước vào cuộc sống sinh hoạt ở Minh Nguyệt Nhai.
Cô sống cũng chẳng tính là an ổn.
Nơi này, đồng môn không thích cô, không đơn thuần chỉ vì trước đó cô được Khương Hà yêu thương hết mực, vốn cùng nhau tu đạo, tất cả mọi người đều gọi Khương Dục Hoành là sư phụ, cô lại kêu sư thúc, mọi người nghe lệnh không ra khỏi Minh Nguyệt Nhai, cô cứ bảy ngày có thể về Thủy Minh Giản, huống chi, cô học kiếm hơn mười năm, ngay cả linh kiếm cũng không rút ra nổi, ai sẽ thích kẻ khác biệt không có bản lãnh chứ?
Lại một năm, xuân đi đông đến, một năm vất vả cuối cùng đã qua, sắp sửa tới ngày chọn kiếm của Minh Nguyệt Nhai.
Khác với Thủy Minh Giản, đệ tử Minh Nguyệt Nhai rất đông, cho nên hàng năm chỉ có thể chọn kiếm vào thời gian đặc biệt.
Khương Dục Hoành ấn định thời gian này tại tiết Tiểu Tuyết, đệ tử chọn linh kiếm tốt, còn có thể tranh một suất làm người thủ sơn trước xuân tế.
Trong sân viện rộng lớn, mấy chục thanh linh kiếm xếp một hàng trên hương án, đệ tử Minh Nguyệt Nhai từng người một bước lên trước, đệ tử chọn được linh kiếm tốt mừng rỡ như điên, không muốn rời tay bội kiếm yêu quý của mình, kẻ không thành công mặc dù hơi nhụt chí nhưng không thất vọng vì phần lớn bọn họ luôn lười biếng trong giờ luyện công hàng ngày, tự an ủi mình năm sau chăm chỉ hơn là được.
Đến phiên Khương Ngộ, cô từng bước đi đến trước hương án, chuẩn bị niệm kiếm dẫn quyết.
Xung quanh râm ran tiếng cười trộm, có lẽ đang chờ coi màn kịch hay do cô diễn, Khương Ngộ nhắm mắt, ép mình không cần để ý.
Năm nay Khương Ngộ mười bảy tuổi, bắt đầu từ ba năm trước, cô đã chọn kiếm vô số lần.
Cô biết mình thiên tư không tốt, nhưng lại không muốn làm cho Khương Hà mất mặt, hơn năm nay, cô gần như lật tất cả các sách có liên quan đến kiếm trong thư khố Thủy Minh Giản, rốt cuộc cũng tìm được một biện pháp nguy hiểm nhưng cũng không đến mức đáng sợ.
Ghi rằng, vào thời điểm nguy cấp, nội lực bị phong bế, người dùng không thể rút kiếm — nội lực bị kìm hãm, có thể dùng chút linh lực còn sót lại đánh lên thân kiếm, sau đó cho linh lực bám vào kiếm khí rồi cưỡng ép thu về, đồng thời niệm kiếm dẫn quyết để linh lực đi khắp bách hải một vòng nhỏ, có thể phá vỡ xiềng xích bó buộc.
Khương Ngộ đọc kiếm dẫn quyết một lần, linh kiếm vẫn như thường ngày, không một thanh rời khỏi vỏ.
Đọc tiếp, vẫn vậy.
Khương Ngộ di chân tại chỗ một lát, rốt cuộc quyết định, cô lại nhắm mắt lần nữa, linh lực như sương từ lòng bàn tay tràn ra, rơi vào thân linh kiếm gần nhất, cướp lấy kiếm khí bốn phía.
Bốn bề yên lặng, các dồng môn không biết cô đang làm gì, vừa sợ vừa nghi ngờ mà chăm chú dõi theo cô.
Ngay lúc tất cả mọi người định coi đó là một trò cười, linh kiếm đặt trên hương án bỗng chấn động!