Chương : 16
“Cẩn thận tí chứ”, Rhyme quát.
“Tôi là chuyên gia cơ mà.”
“Mới hay cũ đấy?”
“Suỵt”, Thom nói.
“Ôi trời, vì Chúa. Lưỡi dao cạo, mới hay cũ đấy?”
“Đừng thở... À, đây rồi. Nhẵn như mông em bé.”
Họ không khám nghiệm mà trang điểm.
Thom đang cạo râu cho Rhyme, lần đầu tiên trong tuần. Anh ta cũng gội đầu và chải tóc ngược ra sau cho Rhyme.
Nửa tiếng trước, trong khi đợi Sachs vá chứng cứ trở về, Rhyme đã bảo Cooper ra khỏi phòng khi Thom khéo léo dùng K-Y thông đường tiểu cho anh và nối lại ống. Sau khi xong việc, Thom nhìn anh và nói: “Trông anh tệ lắm. Anh có thấy thế không?”
“Tôi không quan tâm. Sao tôi lại phải quan tâm chứ?”
Bất ngờ phát hiện ra anh có quan tâm.
“Cạo râu, được không?” Chành thanh niên hỏi.
“Ta không có thời gian.”
Sự quan ngại thực sự của Rhyme là nếu bác sĩ Berger thấy anh chỉnh tề quá, có thể ông ta sẽ không muốn tiếp tục vụ tự tử. Một bệnh nhân nhếch nhác là bệnh nhân đã nản lòng.
“Và tắm rửa nữa.”
“Không.”
“Lincoln, chúng ta đang có khách đấy.”
Cuối cùng thì Rhyme cũng càu nhàu: “Được rồi.”
“Và thay luôn bộ pyjama chứ? Anh thấy thế nào?”
“Có gì không ổn đâu?”
Lúc này, sau khi được tắm rửa, mặc quần bò và áo sơ mi trắng, Rhyme lảng tránh cái gương người trợ lý đang giơ trước mặt anh.
“Cất nó đi.”
“Tốt hơn rất nhiều.”
Lincoln Rhyme nhạo báng khịt mũi. “Tôi sẽ đi dạo một chút trước khi họ đến”, anh tuyên bố và ngả đầu lên gối. Mel Cooper quay sang nhìn anh với vẻ mặt khó hiểu.
“Trong đầu anh ấy”, Thom giải thích.
“Đầu anh?”
“Tôi tưởng tượng”, Rhyme tiếp.
“Một trò ảo thuật”,Cooper nói.
“Tôi có thể đi qua bất cứ khu vực lân cận nào tôi muốn mà không bao giờ bị trấn lột. Leo núi nhưng không bao giờ mệt. Trèo núi nếu tôi muốn. Đi bát phố trên Đại lộ Năm. Tất nhiên là những thứ tôi nhìn thấy chưa chắc đã có ở đó. Nhưng thế thì đã sao? Sao trên trời cũng thế mà.”
“Như thế nào?” Cooper hỏi.
“Ánh sáng của các vì sao mà ta đang nhìn thấy có tuổi thọ hàng nghìn hay hàng triệu năm. Khi chúng đến được Trái Đất thì những ngôi sao đã dịch chuyển. Chúng không còn ở chỗ mà ta nhìn thấy chúng nữa.” Rhyme thở dài vì cơn mệt mỏi lan tỏa khắp người. “Tôi cho rằng trong số chúng có cả những vì sao đã cháy hết và biến mất.” Anh nhắm mắt.
“Hắn làm mọi thứ khó khăn hơn đây.”
“Không nhất thiết”, Rhyme trả lời Lon Sellitto.
Sellitto, Banks và Sachs vừa từ hiện trường trại chăn nuôi trở về.
“Đồ lót, mặt trăng và cây cối”, Jerry Banks bi quan nhưng vui vẻ nói. “Chính xác là bản đồ đường đi.”
“Cả bụi bẩn nữa”, Rhyme nhắc, anh luôn coi trọng bùn đất.
“Anh có ý tưởng gì về ý nghĩa của chúng không?” Sellitto hỏi.
“Vẫn chưa”, Rhyme nói.
“Polling đâu nhỉ?” Sellitto lẩm bẩm. “Anh ta vẫn chưa trả lời tin nhắn.”
“Không thấy anh ta đâu”, Rhyme nói.
Một bóng người xuất hiện trên ô cửa.
“Vẫn sống và hít thở”, một giọng nam trung mượt mà vang lên.
Rhyme gật đầu ra hiệu cho một người đàn ông lênh khênh vào phòng. Trông anh ta có vẻ ủ rũ, nhưng khuôn mặt gầy guộc của anh ta nở một nụ cười ấm áp, trông có vẻ không hợp cảnh. Terry Dobyns là đại diện tiêu biểu của Phòng Khoa học Hành vi của NYPD. Anh ta học cùng với các nhà hành vi học của FBI ở Quantico, có bằng tâm lý học và khoa học pháp y.
Nhà tâm lý học này yêu opera và bóng bầu dục. Khi Lincoln Rhyme tỉnh dậy trong bệnh viện ba năm rưỡi trước đây, Dobyns ngồi cạnh anh, nghe vở Aïda trên máy Walkman. Anh ta dành ba giờ sau đó để thực hiện phiên tư vấn đầu tiên trong rất nhiều phiên tư vấn về chấn thương của Rhyme.
“Giờ thì tại sao tôi lại nhớ đến cuốn sách nói về những người không trả lời điện thoại?”
“Để sau hãy phân tích tôi, Terry. Cậu đã nghe về đối tượng của chúng ta rồi chứ?”
“Một chút”, Dobyns nói, quan sát Rhyme. Anh ta không phải bác sĩ nhưng anh ta hiểu về cơ thể học. “Cậu ổn chứ, Lincoln? Trông hơi xanh xao đấy.”
“Hôm nay tôi có chỉnh trang chút”, Rhyme thừa nhận. “Tôi có ngủ trưa. Cậu biết tôi lười thế nào rồi chứ.”
“Ừ, rồi. Cậu là người gọi tôi dậy vào lúc ba giờ sáng để hỏi vài câu về tội phạm và không hiểu vì sao tôi lại ở trên giường. Có chuyện gì thế? Cậu đang tìm hồ sơ à?”
“Bất kỳ thứ gì cậu có thể nói với chúng tôi đều có ích.”
Sellitto tóm tắt tình hình cho Dobyns, người mà theo ký ức của Rhyme hồi còn làm việc cùng nhau, không bao giờ ghi chép nhưng vẫn nhớ được mọi thứ trong cái đầu tóc đỏ sậm của anh ta.
Nhà tâm lý học đi đến trước bản sơ đồ treo trên tường, thỉnh thoảng liếc nhìn nó trong khi lắng nghe viên thám tử nói.
Anh ta giơ một ngón tay lên chặn Sellitto. “Nạn nhân, nạn nhân… Tất cả bọn họ đều được phát hiện dưới lòng đất. Bị chôn, trong tầng hầm, trong đường hầm của trại chăn nuôi.”
“Đúng thế”, Rhyme khẳng định.
“Tiếp đi.”
Sellitto tiếp tục nói về vụ giải cứu Mastorylle Gerger.
“Tốt, được rồi”, Dobyns nói một các trống rỗng. Sau đó ngừng, rồi quay lại nhìn sơ đồ trên tường lần nữa. Anh ta giạng chân, tay chống nạnh, nhìn chăm chăm vào những thông số rời rạc về Đối tượng 832. “Nói tôi nghe suy nghĩ của anh đi, về việc hắn thích những cổ xưa ấy.”
“Tôi không biết điều đó có đem lại gì không. Cho tới nay thì những manh mối về hắn đều có liên quan đến New York lịch sử. Vật liệu xây dựng từ hồi đầu thế kỷ, trại chăn nuôi, hệ thống hơi nước.”
Bất ngờ Dobyns tiến lên và gõ vào tờ giấy. “Hanna. Nói tôi nghe về Hanna.”
“Amelia?” Rhyme hỏi.
Cô nói với Dobyns việc đối tượng đã gọi Mastorylle Gerger là Hanna mà không có một lý do rõ ràng nào cả. “Cô ấy nói hắn thích gọi cái tên đó. Và nói với cô ấy bằng tiếng Đức.”
“Và hắn cũng tranh thủ sờ soạng cô ta, đúng không?” Dobyns nhận xét. “Taxi, sân bay – an toàn đối với hắn. Nhưng nấp trong phòng giặt là… Hắn ta chắc chắn phải có động lực thực sự để bắt một người Đức.”
Dobyns xoáy một búi tóc rối bù quanh ngón tay, ngồi phịch xuống một cái ghế mây và duỗi chân trước mặt.
“Được rồi, thử cái này xem. Dưới lòng đất… đó là chìa khóa. Nó nói với tôi rằng hắn là người đang giấu giếm điều gì đó và khi tôi nghe điều này tôi bắt đầu nghĩ đến chứng loạn thần kinh.”
“Hắn ta không có vẻ cuồng loạn”, Sellitto nói. “Hắn cực kỳ bình tĩnh và tính toán.”
“Không phải chứng loạn thần kinh theo nghĩa ấy. Đây là một kiểu rối loạn tâm lý. Triệu chứng biểu hiện khi có một chấn thương xảy ra trong cuộc đời bệnh nhân và vô thức chuyển đổi chấn thương này thành một thứ khác. Đó là một cố gắng bảo vệ bệnh nhân. Với việc chuyển đổi truyền thống của chứng cuồng loạn, anh sẽ thấy những triệu chứng bệnh lý – buồn nôn, đau đớn, liệt. Nhưng tôi nghĩ ở đây chúng ta đang xử lý vấn đề có liên quan. Sự phân tách – đó là tên chúng tôi gọi khi phản ứng của chấn thương ảnh hưởng đến tư duy chứ không phải thể xác. Chứng quên cuồng loạn, các trạng thái điên, bỏ nhà lang thang. Đa nhân cách.”
“Jekyll và Hyde[95]?” Mel Cooper vờ là một gã đồng tính, đấm Banks.
“À, tôi không nghĩ hắn thực sự có bệnh đa nhân cách”, Dobyns nói tiếp. “Đây là một triệu chứng rất hiếm thấy. Những trường hợp đa nhân cách truyền thống thường là người trẻ tuổi và có chỉ số IQ thấp hơn anh chàng của các cậu.” Anh ta hất đầu về phía tấm áp phích hồ sơ trên tường. “Hắn ta khéo léo và thông minh. Một kẻ tấn công rõ ràng và có tổ chức.” Dobyns nhìn ra ngoài cửa sổ một lát. “Thú vị thật đấy, Lincoln. Tôi nghĩ đối tượng của cậu khoác lên mình một nhân cách khác khi nó phù hợp với hắn ta – khi hắn ta muốn giết người – và đó là điều rất quan trọng.”
“Vì sao?”
“Hai lý do. Thứ nhất, điều đó nói cho ta vài điều về nhân cách chính của hắn. Hắn là một người được đào tạo – có thể trong công việc, có thể khi đi học – để giúp người khác, không phải làm họ tổn thương. Một thầy tu, một luật sư, chính trị gia, nhân viên hoạt động xã hội. Thứ hai, tôi nghĩ điều đó có nghĩa là hắn đã tìm được cho mình một bản đồ chi tiết. Nếu các anh tìm ra nó là gì, có thể các anh sẽ tìm được manh mối dẫn tới hắn.”
“Bản đồ chi tiết kiểu gì?”
“Có thể hắn đã muốn giết chóc từ lâu rồi. Nhưng hắn không hành động cho tới khi hắn tìm cho mình một hình mẫu. Có thể là một cuốn sách hay bộ phim. Hoặc ai đó hắn biết. Nếu đó là người mà hắn có thể bị đánh đồng cùng, ai đó mà tội ác của họ đã cấp cho hắn giấy phép giết chóc. Còn chỗ này thì tôi thấy có vẻ hơi khập khiễng…”
“Tiếp đi”, Rhyme nói: “Tiếp đi.”
“Sự đam mê đối với lịch sử của hắn nói với tôi rằng nhân vật của hắn là ai đó trong quá khứ.”
“Đời thực?”
“Tôi không chắc. Có thể là tưởng tượng, có thể không phải. Hanna, bất kể cô ta là ai, phải là một nhân vật trong một câu chuyện đâu đó. Cả ở Đức. Hay là người Mỹ gốc Đức.”
“Cậu có biết điều gì đó có thể làm hắn ra như vậy?”
“Freud nói đó là – còn gì được nữa? – xung đột tình dục trong giai đoạn Oedip[96]. Ngày nay, mọi người nhất trí rằng sự vấp váp mang tính phát triển chỉ là một trong những nguyên nhân – bất kỳ chấn thương nào cũng có thể dẫn đến điều đó. Và nó không nhất thiết chỉ là một sự kiện duy nhất. Có thể là nứt vỡ nhân cách, một loạt thất vọng về cuộc sống cá nhân hay sự nghiệp. Khó nói.” Mắt anh ta chăm chú nhìn hồ sơ. “Nhưng tôi rất hy vọng cậu sẽ tóm được hắn, Lincoln. Tôi rất muốn được làm việc với hắn trong mấy tiếng đồng hồ.”
“Thom, cậu ghi lại cả chưa?”
“Rồi, bwana.”
“Nhưng có một câu hỏi”, Rhyme bắt đầu.
Dobyns ngoảnh lại. “Tôi sẽ nói đấy chính là câu hỏi, Lincoln: Vì sao hắn để lại manh mối, đúng thế không?”
“Đúng vậy. Tại sao?”
“Nghĩ xem hắn đã làm gì… Hắn đang nói chuyện với cậu. Không dông dài, rời rạc như Con trai của Sam hay sát thủ Zodiac[97]. Hắn không bị tâm thần phân liệt. Hắn đang giao tiếp – bằng ngôn ngữ của cậu. Ngôn ngữ pháp y. Vì sao?” Đi đi lại lại, mắt anh ta nhìn lên tấm áp phích. “Tất cả những gì tôi có thể đoán lúc này là hắn muốn chia sẻ tội lỗi. Giết chóc đối với hắn rất khó khăn. Sẽ dễ dàng hơn nếu hắn lôi chúng ta vào. Nếu chúng ta không cứu được nạn nhân thì họ chết, một phần là do lỗi của chúng ta.”
“Nhưng thế thì tốt, đúng không?” Rhyme hỏi. “Thế có nghĩa là hắn sẽ tiếp tục cho chúng ta những manh mối có thể giải đoán. Nếu không, nếu câu đó quá khó, hắn sẽ không chia sẻ được gánh nặng.”
“Ừ, đúng vậy”, Dobyns nói, nụ cười đã tắt. “Nhưng vẫn còn những yếu tố khác nữa.”
Sellitto đưa ra câu trả lời: “Tăng cường hoạt động liên tục.”
“Đúng thế”, Dobyns khẳng định.
“Làm sao hắn có thể tấn công thường xuyên hơn được?” Banks lẩm bẩm. “Ba giờ một lần chưa đủ nhanh hay sao?”
“Hắn sẽ tìm được cách”, nhà tâm lý học nói tiếp. “Chủ yếu là hắn sẽ nhắm tới nhiều nạn nhân.” Đôi mắt nhà tâm lý học nheo lại. “Thế nào Lincoln, cậu ổn chứ?”
Trán nhà hình sự học lấm tấm mồ hôi, anh ta liếc mắt nhìn. “Mệt. Quá nhiều điều phấn khích trong một ngày cho một kẻ tàn tật già nua.”
“Một điều cuối cùng. Hồ sơ của nạn nhân rất quan trọng trong tội ác hàng loạt. Nhưng ở đây chúng ta gặp các giới tính, tuổi tác, và tấng lớp kinh tế khác nhau. Tất cả đều da trắng nhưng hắn chủ yếu đi săn trong ao da trắng nên điều này không có ý nghĩa nhiều về mặt thống kê. Với những gì ta đã biết, ta không thể lần ra được vì sao hắn lại chọn những người này. Nếu cậu có thể lần ra, cậu sẽ đi trước hắn.”
“Cám ơn, Terry”, Rhyme nói. “Ở lại một lúc nữa nhé.”
“Được thôi, Lincoln. Nếu cậu muốn.”
Sau đó Rhyme hạ lệnh. “Hãy xem vật chứng từ hiện trường trại chăn nuôi. Chúng ta có gì nhỉ? Đồ lót?”
Mel Cooper gom những cái túi do Sachs đem về từ hiện trường. Anh ta nhìn một cái túi đựng đồ lót. “Loại D’Amore của hãng thời trang Katrina”, anh ta tuyên bố. “Bông một trăm phần trăm, dây chun. Vải dệt tại Mỹ. Cắt và may tại Đài Loan.”
“Chỉ cần nhìn mà anh đã biết ngay ư?” Sachs ngạc nhiên hỏi.
“Không, tôi đọc thôi”, anh ta trả lời, chỉ vào cái mác.
“Ồ…”
Mấy viên cảnh sát cười rộ.
“Có thể hắn nói với chúng ta rằng, hắn đã bắt được một người phụ nữ khác chăng?” Sachs hỏi.
“Có khả năng.” Rhyme nói.
Cooper mở cái túi. “Tôi không biết chất lỏng đó là gì. Tôi sẽ đo sắc ký.”
Rhyme bảo Thom giơ mẩu giấy có tuần trăng lên. Anh thận trọng nghiên cứu nó. Một mẩu giấy như vậy là một bằng chứng xác lập cá thể tuyệt vời. Anh có thể nối nó với tờ báo mà nó bị xé ra và liên kết chứng với nhau chặt chẽ như dấu tay. Tất nhiên vấn đề ở đây là họ không có tờ báo nguyên bản. Anh tự hỏi, không biết họ có thể tìm được nó hay không. Đối tượng có thể hủy nó ngay sau khi hắn xé mẩu giấy. Nhưng Lincoln Rhyme vẫn thiên về ý nghĩ rằng hắn không làm thế. Anh muốn hình dung ra nó ở đâu đó. Đang đợi anh tìm thấy. Theo cách mà anh luôn hình dung ra bằng chứng gốc: một mẩu sơn xe hơi bị cào rớt, một ngón tay bị mất móng, cái nòng súng bắn ra viên đạn súng trường được tìm thấy trong cơ thể nạn nhân. Những nguồn này – luôn ở gần đối tượng – có nhân cách riêng của chúng trong trí óc Rhyme. Chúng có thể hống hách hay độc ác.
Hay bí hiểm.
Tuần trăng.
Rhyme hỏi Dobyns liệu đối tượng của họ có động cơ nào để hắn hoạt động theo chu kỳ hay không.
“Không. Giờ không phải là lúc trăng tròn. Tới hôm nay mới được bốn ngày.”
“Như thế mặt trăng ở đây có ý nghĩa khác.”
“Có thể ngay từ đầu nó cũng không có nghĩa là mặt trăng”, Sachs nói.
Vui vẻ, mà hoàn toàn có cơ sở, Rhyme nghĩ. Anh nói: “Ý hay đấy, Amelia. Có thể hắn nói về những vòng tròn. Về mực. Về giấy. Về hình học. Hành tinh…”
Rhyme nhận ta cô đang nhìn anh. Có thể cô vừa nhận thấy anh đã cạo râu và chải tóc, thay quần áo.
Tâm trạng của cô ta là gì? Anh tự hỏi. Giận anh, hay không quan tâm? Anh không đoán được. Lúc này Amelia cũng bí ẩn như Đối tượng 823.
Tiếng bíp của máy fax vang lên trong hành lang. Thom ra ngoài và quay lại với hai tờ giấy.
“Từ Emma Rollins”, anh ta nói. Anh ta giơ tờ giấy lên để Rhyme có thể nhìn thấy.
“Bản khảo sát các cửa hàng thực phẩm của chúng ta. Trong hai ngày qua có mười một cửa hàng ở Manhattan bán chân bê cho những khách hàng mua ít hơn năm món hàng.” Anh ta bắt đầu viết lên tờ áp phích, sau đó quay lại nhìn Rhyme: “Tên các cửa hàng?”
“Tất nhiên rồi. Ta cần nó để sau này còn tham chiếu chéo.”
Thom viết lên bản hồ sơ.
B’way & 82nd,
ShopRite
B’way & 96th,
Anderson Foods
Greenwich & Bank,
ShopRite
2nd Ave., 72nd-73nd,
Grocery World
Battery Park City,
J&G’s Emporium
1709 2nd Ave.,
Anderson Foods
34th & Lex.,
Food Warehouse
8th Ave. & 24th,
ShopRite
Houston & Lafayette,
ShopRite
6th Ave. & Houston,
J&G’s Emporium
Greenwich & Franklin,
Grocery World
“Như thế là cả thành phố còn gì”, Sachs nói.
“Kiên nhẫn”, Lincoln Rhyme bồn chồn nói.
Mel Cooper đang xem xét sợi rơm mà Sachs tìm được. “Chẳng có gì đặc biệt.” Anh ta ném nó sang một bên.
“Nó còn mới không?” Rhyme hỏi. Nếu nó còn mới, họ có thể tham chiếu chéo tới những cửa hàng vừa bán chổi, vừa bán chân bê trong một ngày.
Nhưng Cooper nói: “Tôi đã nghĩ tới điều này rồi. Khoảng sáu tháng hoặc lâu hơn.” Anh ta bắt đầu lắc các bằng chứng dấu vết trong đống quần áo của cô gái Đức xuống một tờ báo.
“Có mấy thứ ở đây”, anh ta nói trong khi soài người trên tờ báo. “Bụi bẩn.”
“Có đủ để phân tích biến thiên mật độ không?”
“Không. Thực ra chỉ là ít bụi. Có thể là từ hiện trường.”
Cooper xem xét phần còn lại của những thứ mà anh ta chải ra được từ đám quần áo máu me.
“Bụi gạch. Sao lại lắm gạch thế?”
“Từ bọn chuột bị tôi bắn. Tường chỗ đó bằng gạch.”
“Cô bắn chúng? Tại hiện trường?” Rhyme cau mày.
Sachs chống cự: “Vâng, đúng thế. Nhưng chúng bò đầy trên người cô ấy.”
Tức giận, nhưng anh bỏ qua. Chỉ nói: “Đủ các thứ ô nhiễm sinh ra lúc bắn súng. Chì, thạch tín, carbon, bạc…”
“Đây này… một mẩu da màu đỏ. Từ găng tay. Và… ta có một mẩu sợi. Một mẫu khác.”
Các nhà hình sự học rất thích sợi. Đó là một nhúm sợi nhỏ xíu, rất khó nhìn thấy bằng mắt thường.
“Tuyệt vời”, Rhyme nói. “Còn gì nữa?”
“Và đây là ảnh hiện trường”, Sachs nói, “và dấu tay. Một trên cổ họng cô gái và một ở chỗ hắn nhặt găng tay”. Cô giơ chúng lên.
“Tốt”, Rhyme nói và xem xét chúng cẩn thận.
Trên khuôn mặt cô tỏa sáng ánh hào quang của một chiến thắng miễn cưỡng – một cơn sốt chiến thắng, mặt trái của việc căm thù bản thân vì là một kẻ không chuyên.
Rhyme đang nghiên cứu tấm ảnh Polaroid thì anh nghe thấy tiếng bước chân trên cầu thang và Jim Polling đến. Anh ta vào phòng ra vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Lincoln Rhyme được chỉnh trang và bước đến chỗ Sellitto.
“Tôi vừa ở hiện trường vụ án”, anh ta nói. “Các bạn đã cứu được nạn nhân. Làm rất tốt.” Anh ta gật đầu về phía Sachs, ra ý là anh ta tính cả cô trong đó. “Nhưng thằng khốn đó lại tóm được người khác rồi à?”
“Hoặc chuẩn bị tóm”, Rhyme lẩm bẩm, vẫn chăm chăm nhìn tấm ảnh.
“Chúng tôi đang nghiên cứu manh mối”, Banks nói.
“Jim, tôi đang cố tìm anh”, Sellitto nói. “Tôi đã thử gọi đến cả văn phòng Thị trưởng.”
“Tôi làm việc với sếp. Phải van lạy để xin thêm vài tay tìm kiếm. Tôi kiếm được thêm năm mươi người nữa từ đội an ninh cho Liên Hiệp Quốc.”
“Đại úy, có vài chuyện ta cần bàn. Chúng ta đang có vấn đề. Điều gì đó xảy ra tại hiện trường cuối cùng…”
Một giọng nói cho tới lúc này chưa ai nghe thấy vang lên trong phòng. “Vấn đề? Ai có vấn đề? Ở đây chẳng có vấn đề gì cả, đúng không? Không hề có vấn đề nào hết.”
Rhyme nhìn lên, một người đàn ông cao gầy trên ngưỡng cửa. Anh ta đen tuyền, mặc bộ vét nực cười màu xanh lá và đôi giày bóng loáng như hai tấm gương màu nâu. Tim Rhyme chùng xuống. “Dellray.”
“Lincoln Rhyme. Người hùng của New York. Chào Lon. Cả Jim Polling nữa này, công việc thế nào, anh bạn?”
Phía sau Dellray là nửa tá đàn ông và phụ nữ. Rhyme biết ngay tức khắc vì sao đặc vụ liên bang lại có mặt ở đây. Dellray nhìn lướt những sĩ quan có mặt trong phòng, sự chú ý của anh ta bùng lên một khắc khi thấy Sachs rồi tan biến.
“Anh muốn gì?” Polling hỏi.
Dellray nói: “Các vị vẫn chưa thấy sao? Các vị đã bị loại. Chúng tôi đến tiễn chân các vị. Đúng thế, thưa ngài. Đóng cửa ổ đề.”
“Tôi là chuyên gia cơ mà.”
“Mới hay cũ đấy?”
“Suỵt”, Thom nói.
“Ôi trời, vì Chúa. Lưỡi dao cạo, mới hay cũ đấy?”
“Đừng thở... À, đây rồi. Nhẵn như mông em bé.”
Họ không khám nghiệm mà trang điểm.
Thom đang cạo râu cho Rhyme, lần đầu tiên trong tuần. Anh ta cũng gội đầu và chải tóc ngược ra sau cho Rhyme.
Nửa tiếng trước, trong khi đợi Sachs vá chứng cứ trở về, Rhyme đã bảo Cooper ra khỏi phòng khi Thom khéo léo dùng K-Y thông đường tiểu cho anh và nối lại ống. Sau khi xong việc, Thom nhìn anh và nói: “Trông anh tệ lắm. Anh có thấy thế không?”
“Tôi không quan tâm. Sao tôi lại phải quan tâm chứ?”
Bất ngờ phát hiện ra anh có quan tâm.
“Cạo râu, được không?” Chành thanh niên hỏi.
“Ta không có thời gian.”
Sự quan ngại thực sự của Rhyme là nếu bác sĩ Berger thấy anh chỉnh tề quá, có thể ông ta sẽ không muốn tiếp tục vụ tự tử. Một bệnh nhân nhếch nhác là bệnh nhân đã nản lòng.
“Và tắm rửa nữa.”
“Không.”
“Lincoln, chúng ta đang có khách đấy.”
Cuối cùng thì Rhyme cũng càu nhàu: “Được rồi.”
“Và thay luôn bộ pyjama chứ? Anh thấy thế nào?”
“Có gì không ổn đâu?”
Lúc này, sau khi được tắm rửa, mặc quần bò và áo sơ mi trắng, Rhyme lảng tránh cái gương người trợ lý đang giơ trước mặt anh.
“Cất nó đi.”
“Tốt hơn rất nhiều.”
Lincoln Rhyme nhạo báng khịt mũi. “Tôi sẽ đi dạo một chút trước khi họ đến”, anh tuyên bố và ngả đầu lên gối. Mel Cooper quay sang nhìn anh với vẻ mặt khó hiểu.
“Trong đầu anh ấy”, Thom giải thích.
“Đầu anh?”
“Tôi tưởng tượng”, Rhyme tiếp.
“Một trò ảo thuật”,Cooper nói.
“Tôi có thể đi qua bất cứ khu vực lân cận nào tôi muốn mà không bao giờ bị trấn lột. Leo núi nhưng không bao giờ mệt. Trèo núi nếu tôi muốn. Đi bát phố trên Đại lộ Năm. Tất nhiên là những thứ tôi nhìn thấy chưa chắc đã có ở đó. Nhưng thế thì đã sao? Sao trên trời cũng thế mà.”
“Như thế nào?” Cooper hỏi.
“Ánh sáng của các vì sao mà ta đang nhìn thấy có tuổi thọ hàng nghìn hay hàng triệu năm. Khi chúng đến được Trái Đất thì những ngôi sao đã dịch chuyển. Chúng không còn ở chỗ mà ta nhìn thấy chúng nữa.” Rhyme thở dài vì cơn mệt mỏi lan tỏa khắp người. “Tôi cho rằng trong số chúng có cả những vì sao đã cháy hết và biến mất.” Anh nhắm mắt.
“Hắn làm mọi thứ khó khăn hơn đây.”
“Không nhất thiết”, Rhyme trả lời Lon Sellitto.
Sellitto, Banks và Sachs vừa từ hiện trường trại chăn nuôi trở về.
“Đồ lót, mặt trăng và cây cối”, Jerry Banks bi quan nhưng vui vẻ nói. “Chính xác là bản đồ đường đi.”
“Cả bụi bẩn nữa”, Rhyme nhắc, anh luôn coi trọng bùn đất.
“Anh có ý tưởng gì về ý nghĩa của chúng không?” Sellitto hỏi.
“Vẫn chưa”, Rhyme nói.
“Polling đâu nhỉ?” Sellitto lẩm bẩm. “Anh ta vẫn chưa trả lời tin nhắn.”
“Không thấy anh ta đâu”, Rhyme nói.
Một bóng người xuất hiện trên ô cửa.
“Vẫn sống và hít thở”, một giọng nam trung mượt mà vang lên.
Rhyme gật đầu ra hiệu cho một người đàn ông lênh khênh vào phòng. Trông anh ta có vẻ ủ rũ, nhưng khuôn mặt gầy guộc của anh ta nở một nụ cười ấm áp, trông có vẻ không hợp cảnh. Terry Dobyns là đại diện tiêu biểu của Phòng Khoa học Hành vi của NYPD. Anh ta học cùng với các nhà hành vi học của FBI ở Quantico, có bằng tâm lý học và khoa học pháp y.
Nhà tâm lý học này yêu opera và bóng bầu dục. Khi Lincoln Rhyme tỉnh dậy trong bệnh viện ba năm rưỡi trước đây, Dobyns ngồi cạnh anh, nghe vở Aïda trên máy Walkman. Anh ta dành ba giờ sau đó để thực hiện phiên tư vấn đầu tiên trong rất nhiều phiên tư vấn về chấn thương của Rhyme.
“Giờ thì tại sao tôi lại nhớ đến cuốn sách nói về những người không trả lời điện thoại?”
“Để sau hãy phân tích tôi, Terry. Cậu đã nghe về đối tượng của chúng ta rồi chứ?”
“Một chút”, Dobyns nói, quan sát Rhyme. Anh ta không phải bác sĩ nhưng anh ta hiểu về cơ thể học. “Cậu ổn chứ, Lincoln? Trông hơi xanh xao đấy.”
“Hôm nay tôi có chỉnh trang chút”, Rhyme thừa nhận. “Tôi có ngủ trưa. Cậu biết tôi lười thế nào rồi chứ.”
“Ừ, rồi. Cậu là người gọi tôi dậy vào lúc ba giờ sáng để hỏi vài câu về tội phạm và không hiểu vì sao tôi lại ở trên giường. Có chuyện gì thế? Cậu đang tìm hồ sơ à?”
“Bất kỳ thứ gì cậu có thể nói với chúng tôi đều có ích.”
Sellitto tóm tắt tình hình cho Dobyns, người mà theo ký ức của Rhyme hồi còn làm việc cùng nhau, không bao giờ ghi chép nhưng vẫn nhớ được mọi thứ trong cái đầu tóc đỏ sậm của anh ta.
Nhà tâm lý học đi đến trước bản sơ đồ treo trên tường, thỉnh thoảng liếc nhìn nó trong khi lắng nghe viên thám tử nói.
Anh ta giơ một ngón tay lên chặn Sellitto. “Nạn nhân, nạn nhân… Tất cả bọn họ đều được phát hiện dưới lòng đất. Bị chôn, trong tầng hầm, trong đường hầm của trại chăn nuôi.”
“Đúng thế”, Rhyme khẳng định.
“Tiếp đi.”
Sellitto tiếp tục nói về vụ giải cứu Mastorylle Gerger.
“Tốt, được rồi”, Dobyns nói một các trống rỗng. Sau đó ngừng, rồi quay lại nhìn sơ đồ trên tường lần nữa. Anh ta giạng chân, tay chống nạnh, nhìn chăm chăm vào những thông số rời rạc về Đối tượng 832. “Nói tôi nghe suy nghĩ của anh đi, về việc hắn thích những cổ xưa ấy.”
“Tôi không biết điều đó có đem lại gì không. Cho tới nay thì những manh mối về hắn đều có liên quan đến New York lịch sử. Vật liệu xây dựng từ hồi đầu thế kỷ, trại chăn nuôi, hệ thống hơi nước.”
Bất ngờ Dobyns tiến lên và gõ vào tờ giấy. “Hanna. Nói tôi nghe về Hanna.”
“Amelia?” Rhyme hỏi.
Cô nói với Dobyns việc đối tượng đã gọi Mastorylle Gerger là Hanna mà không có một lý do rõ ràng nào cả. “Cô ấy nói hắn thích gọi cái tên đó. Và nói với cô ấy bằng tiếng Đức.”
“Và hắn cũng tranh thủ sờ soạng cô ta, đúng không?” Dobyns nhận xét. “Taxi, sân bay – an toàn đối với hắn. Nhưng nấp trong phòng giặt là… Hắn ta chắc chắn phải có động lực thực sự để bắt một người Đức.”
Dobyns xoáy một búi tóc rối bù quanh ngón tay, ngồi phịch xuống một cái ghế mây và duỗi chân trước mặt.
“Được rồi, thử cái này xem. Dưới lòng đất… đó là chìa khóa. Nó nói với tôi rằng hắn là người đang giấu giếm điều gì đó và khi tôi nghe điều này tôi bắt đầu nghĩ đến chứng loạn thần kinh.”
“Hắn ta không có vẻ cuồng loạn”, Sellitto nói. “Hắn cực kỳ bình tĩnh và tính toán.”
“Không phải chứng loạn thần kinh theo nghĩa ấy. Đây là một kiểu rối loạn tâm lý. Triệu chứng biểu hiện khi có một chấn thương xảy ra trong cuộc đời bệnh nhân và vô thức chuyển đổi chấn thương này thành một thứ khác. Đó là một cố gắng bảo vệ bệnh nhân. Với việc chuyển đổi truyền thống của chứng cuồng loạn, anh sẽ thấy những triệu chứng bệnh lý – buồn nôn, đau đớn, liệt. Nhưng tôi nghĩ ở đây chúng ta đang xử lý vấn đề có liên quan. Sự phân tách – đó là tên chúng tôi gọi khi phản ứng của chấn thương ảnh hưởng đến tư duy chứ không phải thể xác. Chứng quên cuồng loạn, các trạng thái điên, bỏ nhà lang thang. Đa nhân cách.”
“Jekyll và Hyde[95]?” Mel Cooper vờ là một gã đồng tính, đấm Banks.
“À, tôi không nghĩ hắn thực sự có bệnh đa nhân cách”, Dobyns nói tiếp. “Đây là một triệu chứng rất hiếm thấy. Những trường hợp đa nhân cách truyền thống thường là người trẻ tuổi và có chỉ số IQ thấp hơn anh chàng của các cậu.” Anh ta hất đầu về phía tấm áp phích hồ sơ trên tường. “Hắn ta khéo léo và thông minh. Một kẻ tấn công rõ ràng và có tổ chức.” Dobyns nhìn ra ngoài cửa sổ một lát. “Thú vị thật đấy, Lincoln. Tôi nghĩ đối tượng của cậu khoác lên mình một nhân cách khác khi nó phù hợp với hắn ta – khi hắn ta muốn giết người – và đó là điều rất quan trọng.”
“Vì sao?”
“Hai lý do. Thứ nhất, điều đó nói cho ta vài điều về nhân cách chính của hắn. Hắn là một người được đào tạo – có thể trong công việc, có thể khi đi học – để giúp người khác, không phải làm họ tổn thương. Một thầy tu, một luật sư, chính trị gia, nhân viên hoạt động xã hội. Thứ hai, tôi nghĩ điều đó có nghĩa là hắn đã tìm được cho mình một bản đồ chi tiết. Nếu các anh tìm ra nó là gì, có thể các anh sẽ tìm được manh mối dẫn tới hắn.”
“Bản đồ chi tiết kiểu gì?”
“Có thể hắn đã muốn giết chóc từ lâu rồi. Nhưng hắn không hành động cho tới khi hắn tìm cho mình một hình mẫu. Có thể là một cuốn sách hay bộ phim. Hoặc ai đó hắn biết. Nếu đó là người mà hắn có thể bị đánh đồng cùng, ai đó mà tội ác của họ đã cấp cho hắn giấy phép giết chóc. Còn chỗ này thì tôi thấy có vẻ hơi khập khiễng…”
“Tiếp đi”, Rhyme nói: “Tiếp đi.”
“Sự đam mê đối với lịch sử của hắn nói với tôi rằng nhân vật của hắn là ai đó trong quá khứ.”
“Đời thực?”
“Tôi không chắc. Có thể là tưởng tượng, có thể không phải. Hanna, bất kể cô ta là ai, phải là một nhân vật trong một câu chuyện đâu đó. Cả ở Đức. Hay là người Mỹ gốc Đức.”
“Cậu có biết điều gì đó có thể làm hắn ra như vậy?”
“Freud nói đó là – còn gì được nữa? – xung đột tình dục trong giai đoạn Oedip[96]. Ngày nay, mọi người nhất trí rằng sự vấp váp mang tính phát triển chỉ là một trong những nguyên nhân – bất kỳ chấn thương nào cũng có thể dẫn đến điều đó. Và nó không nhất thiết chỉ là một sự kiện duy nhất. Có thể là nứt vỡ nhân cách, một loạt thất vọng về cuộc sống cá nhân hay sự nghiệp. Khó nói.” Mắt anh ta chăm chú nhìn hồ sơ. “Nhưng tôi rất hy vọng cậu sẽ tóm được hắn, Lincoln. Tôi rất muốn được làm việc với hắn trong mấy tiếng đồng hồ.”
“Thom, cậu ghi lại cả chưa?”
“Rồi, bwana.”
“Nhưng có một câu hỏi”, Rhyme bắt đầu.
Dobyns ngoảnh lại. “Tôi sẽ nói đấy chính là câu hỏi, Lincoln: Vì sao hắn để lại manh mối, đúng thế không?”
“Đúng vậy. Tại sao?”
“Nghĩ xem hắn đã làm gì… Hắn đang nói chuyện với cậu. Không dông dài, rời rạc như Con trai của Sam hay sát thủ Zodiac[97]. Hắn không bị tâm thần phân liệt. Hắn đang giao tiếp – bằng ngôn ngữ của cậu. Ngôn ngữ pháp y. Vì sao?” Đi đi lại lại, mắt anh ta nhìn lên tấm áp phích. “Tất cả những gì tôi có thể đoán lúc này là hắn muốn chia sẻ tội lỗi. Giết chóc đối với hắn rất khó khăn. Sẽ dễ dàng hơn nếu hắn lôi chúng ta vào. Nếu chúng ta không cứu được nạn nhân thì họ chết, một phần là do lỗi của chúng ta.”
“Nhưng thế thì tốt, đúng không?” Rhyme hỏi. “Thế có nghĩa là hắn sẽ tiếp tục cho chúng ta những manh mối có thể giải đoán. Nếu không, nếu câu đó quá khó, hắn sẽ không chia sẻ được gánh nặng.”
“Ừ, đúng vậy”, Dobyns nói, nụ cười đã tắt. “Nhưng vẫn còn những yếu tố khác nữa.”
Sellitto đưa ra câu trả lời: “Tăng cường hoạt động liên tục.”
“Đúng thế”, Dobyns khẳng định.
“Làm sao hắn có thể tấn công thường xuyên hơn được?” Banks lẩm bẩm. “Ba giờ một lần chưa đủ nhanh hay sao?”
“Hắn sẽ tìm được cách”, nhà tâm lý học nói tiếp. “Chủ yếu là hắn sẽ nhắm tới nhiều nạn nhân.” Đôi mắt nhà tâm lý học nheo lại. “Thế nào Lincoln, cậu ổn chứ?”
Trán nhà hình sự học lấm tấm mồ hôi, anh ta liếc mắt nhìn. “Mệt. Quá nhiều điều phấn khích trong một ngày cho một kẻ tàn tật già nua.”
“Một điều cuối cùng. Hồ sơ của nạn nhân rất quan trọng trong tội ác hàng loạt. Nhưng ở đây chúng ta gặp các giới tính, tuổi tác, và tấng lớp kinh tế khác nhau. Tất cả đều da trắng nhưng hắn chủ yếu đi săn trong ao da trắng nên điều này không có ý nghĩa nhiều về mặt thống kê. Với những gì ta đã biết, ta không thể lần ra được vì sao hắn lại chọn những người này. Nếu cậu có thể lần ra, cậu sẽ đi trước hắn.”
“Cám ơn, Terry”, Rhyme nói. “Ở lại một lúc nữa nhé.”
“Được thôi, Lincoln. Nếu cậu muốn.”
Sau đó Rhyme hạ lệnh. “Hãy xem vật chứng từ hiện trường trại chăn nuôi. Chúng ta có gì nhỉ? Đồ lót?”
Mel Cooper gom những cái túi do Sachs đem về từ hiện trường. Anh ta nhìn một cái túi đựng đồ lót. “Loại D’Amore của hãng thời trang Katrina”, anh ta tuyên bố. “Bông một trăm phần trăm, dây chun. Vải dệt tại Mỹ. Cắt và may tại Đài Loan.”
“Chỉ cần nhìn mà anh đã biết ngay ư?” Sachs ngạc nhiên hỏi.
“Không, tôi đọc thôi”, anh ta trả lời, chỉ vào cái mác.
“Ồ…”
Mấy viên cảnh sát cười rộ.
“Có thể hắn nói với chúng ta rằng, hắn đã bắt được một người phụ nữ khác chăng?” Sachs hỏi.
“Có khả năng.” Rhyme nói.
Cooper mở cái túi. “Tôi không biết chất lỏng đó là gì. Tôi sẽ đo sắc ký.”
Rhyme bảo Thom giơ mẩu giấy có tuần trăng lên. Anh thận trọng nghiên cứu nó. Một mẩu giấy như vậy là một bằng chứng xác lập cá thể tuyệt vời. Anh có thể nối nó với tờ báo mà nó bị xé ra và liên kết chứng với nhau chặt chẽ như dấu tay. Tất nhiên vấn đề ở đây là họ không có tờ báo nguyên bản. Anh tự hỏi, không biết họ có thể tìm được nó hay không. Đối tượng có thể hủy nó ngay sau khi hắn xé mẩu giấy. Nhưng Lincoln Rhyme vẫn thiên về ý nghĩ rằng hắn không làm thế. Anh muốn hình dung ra nó ở đâu đó. Đang đợi anh tìm thấy. Theo cách mà anh luôn hình dung ra bằng chứng gốc: một mẩu sơn xe hơi bị cào rớt, một ngón tay bị mất móng, cái nòng súng bắn ra viên đạn súng trường được tìm thấy trong cơ thể nạn nhân. Những nguồn này – luôn ở gần đối tượng – có nhân cách riêng của chúng trong trí óc Rhyme. Chúng có thể hống hách hay độc ác.
Hay bí hiểm.
Tuần trăng.
Rhyme hỏi Dobyns liệu đối tượng của họ có động cơ nào để hắn hoạt động theo chu kỳ hay không.
“Không. Giờ không phải là lúc trăng tròn. Tới hôm nay mới được bốn ngày.”
“Như thế mặt trăng ở đây có ý nghĩa khác.”
“Có thể ngay từ đầu nó cũng không có nghĩa là mặt trăng”, Sachs nói.
Vui vẻ, mà hoàn toàn có cơ sở, Rhyme nghĩ. Anh nói: “Ý hay đấy, Amelia. Có thể hắn nói về những vòng tròn. Về mực. Về giấy. Về hình học. Hành tinh…”
Rhyme nhận ta cô đang nhìn anh. Có thể cô vừa nhận thấy anh đã cạo râu và chải tóc, thay quần áo.
Tâm trạng của cô ta là gì? Anh tự hỏi. Giận anh, hay không quan tâm? Anh không đoán được. Lúc này Amelia cũng bí ẩn như Đối tượng 823.
Tiếng bíp của máy fax vang lên trong hành lang. Thom ra ngoài và quay lại với hai tờ giấy.
“Từ Emma Rollins”, anh ta nói. Anh ta giơ tờ giấy lên để Rhyme có thể nhìn thấy.
“Bản khảo sát các cửa hàng thực phẩm của chúng ta. Trong hai ngày qua có mười một cửa hàng ở Manhattan bán chân bê cho những khách hàng mua ít hơn năm món hàng.” Anh ta bắt đầu viết lên tờ áp phích, sau đó quay lại nhìn Rhyme: “Tên các cửa hàng?”
“Tất nhiên rồi. Ta cần nó để sau này còn tham chiếu chéo.”
Thom viết lên bản hồ sơ.
B’way & 82nd,
ShopRite
B’way & 96th,
Anderson Foods
Greenwich & Bank,
ShopRite
2nd Ave., 72nd-73nd,
Grocery World
Battery Park City,
J&G’s Emporium
1709 2nd Ave.,
Anderson Foods
34th & Lex.,
Food Warehouse
8th Ave. & 24th,
ShopRite
Houston & Lafayette,
ShopRite
6th Ave. & Houston,
J&G’s Emporium
Greenwich & Franklin,
Grocery World
“Như thế là cả thành phố còn gì”, Sachs nói.
“Kiên nhẫn”, Lincoln Rhyme bồn chồn nói.
Mel Cooper đang xem xét sợi rơm mà Sachs tìm được. “Chẳng có gì đặc biệt.” Anh ta ném nó sang một bên.
“Nó còn mới không?” Rhyme hỏi. Nếu nó còn mới, họ có thể tham chiếu chéo tới những cửa hàng vừa bán chổi, vừa bán chân bê trong một ngày.
Nhưng Cooper nói: “Tôi đã nghĩ tới điều này rồi. Khoảng sáu tháng hoặc lâu hơn.” Anh ta bắt đầu lắc các bằng chứng dấu vết trong đống quần áo của cô gái Đức xuống một tờ báo.
“Có mấy thứ ở đây”, anh ta nói trong khi soài người trên tờ báo. “Bụi bẩn.”
“Có đủ để phân tích biến thiên mật độ không?”
“Không. Thực ra chỉ là ít bụi. Có thể là từ hiện trường.”
Cooper xem xét phần còn lại của những thứ mà anh ta chải ra được từ đám quần áo máu me.
“Bụi gạch. Sao lại lắm gạch thế?”
“Từ bọn chuột bị tôi bắn. Tường chỗ đó bằng gạch.”
“Cô bắn chúng? Tại hiện trường?” Rhyme cau mày.
Sachs chống cự: “Vâng, đúng thế. Nhưng chúng bò đầy trên người cô ấy.”
Tức giận, nhưng anh bỏ qua. Chỉ nói: “Đủ các thứ ô nhiễm sinh ra lúc bắn súng. Chì, thạch tín, carbon, bạc…”
“Đây này… một mẩu da màu đỏ. Từ găng tay. Và… ta có một mẩu sợi. Một mẫu khác.”
Các nhà hình sự học rất thích sợi. Đó là một nhúm sợi nhỏ xíu, rất khó nhìn thấy bằng mắt thường.
“Tuyệt vời”, Rhyme nói. “Còn gì nữa?”
“Và đây là ảnh hiện trường”, Sachs nói, “và dấu tay. Một trên cổ họng cô gái và một ở chỗ hắn nhặt găng tay”. Cô giơ chúng lên.
“Tốt”, Rhyme nói và xem xét chúng cẩn thận.
Trên khuôn mặt cô tỏa sáng ánh hào quang của một chiến thắng miễn cưỡng – một cơn sốt chiến thắng, mặt trái của việc căm thù bản thân vì là một kẻ không chuyên.
Rhyme đang nghiên cứu tấm ảnh Polaroid thì anh nghe thấy tiếng bước chân trên cầu thang và Jim Polling đến. Anh ta vào phòng ra vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Lincoln Rhyme được chỉnh trang và bước đến chỗ Sellitto.
“Tôi vừa ở hiện trường vụ án”, anh ta nói. “Các bạn đã cứu được nạn nhân. Làm rất tốt.” Anh ta gật đầu về phía Sachs, ra ý là anh ta tính cả cô trong đó. “Nhưng thằng khốn đó lại tóm được người khác rồi à?”
“Hoặc chuẩn bị tóm”, Rhyme lẩm bẩm, vẫn chăm chăm nhìn tấm ảnh.
“Chúng tôi đang nghiên cứu manh mối”, Banks nói.
“Jim, tôi đang cố tìm anh”, Sellitto nói. “Tôi đã thử gọi đến cả văn phòng Thị trưởng.”
“Tôi làm việc với sếp. Phải van lạy để xin thêm vài tay tìm kiếm. Tôi kiếm được thêm năm mươi người nữa từ đội an ninh cho Liên Hiệp Quốc.”
“Đại úy, có vài chuyện ta cần bàn. Chúng ta đang có vấn đề. Điều gì đó xảy ra tại hiện trường cuối cùng…”
Một giọng nói cho tới lúc này chưa ai nghe thấy vang lên trong phòng. “Vấn đề? Ai có vấn đề? Ở đây chẳng có vấn đề gì cả, đúng không? Không hề có vấn đề nào hết.”
Rhyme nhìn lên, một người đàn ông cao gầy trên ngưỡng cửa. Anh ta đen tuyền, mặc bộ vét nực cười màu xanh lá và đôi giày bóng loáng như hai tấm gương màu nâu. Tim Rhyme chùng xuống. “Dellray.”
“Lincoln Rhyme. Người hùng của New York. Chào Lon. Cả Jim Polling nữa này, công việc thế nào, anh bạn?”
Phía sau Dellray là nửa tá đàn ông và phụ nữ. Rhyme biết ngay tức khắc vì sao đặc vụ liên bang lại có mặt ở đây. Dellray nhìn lướt những sĩ quan có mặt trong phòng, sự chú ý của anh ta bùng lên một khắc khi thấy Sachs rồi tan biến.
“Anh muốn gì?” Polling hỏi.
Dellray nói: “Các vị vẫn chưa thấy sao? Các vị đã bị loại. Chúng tôi đến tiễn chân các vị. Đúng thế, thưa ngài. Đóng cửa ổ đề.”