Chương : 44
“Điện hạ, đây là danh sách chi tiết tình hình chi tiêu cho thi hội lần này của sử bộ.”
Đầu chiều, có một quan viên sử bộ đưa báo cáo chi tiêu cho khoa thi lần này đến tay Triệu Hoằng Nhuận.
Rõ ràng, cách trả thù La Vanh lúc sáng của Triệu Hoằng Nhuận đã bị các quan giám khảo ở sử bộ cho rằng là một hành động giết gà dọa khỉ.
Mà Triệu Hoằng Nhuận cũng không phủ nhận việc ấy.
“Đa tạ đại nhân, ông cứ đi làm việc đi.”
“Vâng.”
Quan viên sử bộ ấy liền cáo lui.
Thấy thế, Triệu Hoằng Nhuận mới cầm xấp báo cáo ấy lên xem kỹ.
Lúc này cậu đang ngồi trong một điện phòng nằm cạnh miếu Phu Tử, bên cạnh ngoài Thẩm Úc và Lữ Mục ra thì chỉ có tám tông vệ tùy thân.
Đúng như câu nói không ở vị trí ấy thì sẽ không biết rõ tình hình. Triệu Hoằng Nhuận hiện giờ đang là bồi giám, theo lí mà nói thì phải đi tuần tra tình hình thi cử của sĩ tử trường thi, tìm xem có tồn tại hiện tượng gian lận không. Nhưng vấn đề ở chỗ, cả miếu Phu Tử có đến hơn hai ngàn sáu trăm thí sinh, chỉ dựa vào cậu và tám tông vệ thì sao có thể cùng lúc kiểm soát hết hơn hai ngàn sáu trăm người chứ?
Chạy đến rụng chân cũng không soát hết được!
Thế nên, Triệu Hoằng Nhuận cũng không vội vã đi bắt gian lận, dù gì đối với cậu mà nói, việc giáo huấn La Văn Trung mới là mục đích chính lần này, còn việc gian lận trong trường thi thì phải xem liệu có tìm được manh mối gì không đã.
Nếu thật sự có thể tìm được thì Triệu Hoằng Nhuận cũng không ngại giúp Đại Ngụy chỉnh đốn lại khoa trường, vì nếu Đại Ngụy càng ổn định thì một hoàng tử như cậu cũng sẽ càng ổn định, mục tiêu làm một nhàn vương của cậu càng dễ thực hiện.
Nhấc chén trà bên cạnh lên nhấp vài ngụm, Triệu Hoằng Nhuận lại đưa mắt nhìn vào báo cáo trong tay.
Đúng như cậu đã nghĩ, bảng báo cáo này của sử bộ quả thực có sự làm giả.
“Bốn mươi sáu ngàn ba trăm lượng… Ha!”
Triệu Hoằng Nhuận khẽ lắc đầu.
Theo ghi chép của bảng báo cáo này thì sử bộ lần này đã đề nghị hộ bộ cấp cho đúng bốn mươi sáu ngàn ba trăm lượng bạc, dùng để sửa chữa duy tu gần ba ngàn Hiệu Phòng trong miếu Phu Tử, ngoài ra còn có các vật dụng trong Hiệu Phòng, đèn đóm cấp cho các sĩ tử và khoản tiền thưởng dành cho các quan viên và tạp dịch tham gia thi hội lần này.
Các dòng chữ ngay ngắn chi tiết này nhìn thì có vẻ chẳng có vấn đề gì, nhưng Triệu Hoằng Nhuận đã tận mắt nhìn thấy mấy Hiệu Phòng rách nát đơn sơ ấy, thế nên cậu tuyệt đối không tin được sử bộ đã đem hết hơn một nửa số bạc ấy để tu sửa Hiệu Phòng.
Một cái chăn mà mười lượng? Đang đùa chắc?
Triệu Hoằng Nhuận không thể tưởng tượng được mấy cái chăn mỏng dính chẳng có bao nhiêu bông vải, lại còn đầy mùi ẩm mốc hệt như mấy ngày rồi không đem từ trong kho ra phơi ở Hiệu Phòng ấy mà lại đáng giá đến mười lượng.
Cần phải biết Triệu Hoằng Nhuận khi ở trong cung tìm nội thị giám bảo làm cho một cái chăn dày nhét đầy bông vải mới toanh thì cũng chỉ phải mất mười mấy lượng thôi.
“Cao Quát, Chủng Chiêu, hai người đi điều tra thử xem. Ta muốn biết xem mấy cái chăn bông này có nguồn gốc thế nào… Đến nhà kho của sử bộ tìm thử, cho tạp dịch ở đó một ít bạc rồi bảo chúng mở miệng, nếu đưa bạc rồi mà vẫn không chịu khai ra thì hai người tự nghĩ cách khác.”
“Vâng.” Tông vệ Cao Quát và Chủng Chiêu chắp tay rồi bước đi.
Lúc này, Triệu Hoằng Nhuận cất bảng báo cáo vào người rồi cùng sáu tông vệ còn lại bước ra ngoài, đi đến Hiệu Phòng.
Hơn ba ngàn Hiệu Phòng ấy nếu nhìn thằng từ trên cao xuống thì sẽ nằm sắp xếp tạo thành một chữ Hồi, tức là bên ngoài có một vòng, bên trong lại có một vòng, nằm đối diện nhau. Thế nên, khi đi giữa hành lang hẹp ấy thì có thể nhìn được các Hiệu Phòng ở hai bên trái phải, thấy rõ các sĩ tử trong Hiệu Phòng đang cặm cụi làm bài.
Triệu Hoằng Nhuận tò mò bước đến một Hiệu Phòng rồi nghiêng người nhìn vào bài thi của một sĩ tử trong ấy.
“…” Có vẻ như nhận ra, sĩ tử ấy liền ngẩng đầu rồi ngơ ngác nhìn Triệu Hoằng Nhuận đang đeo mặt nạ, vừa thắc mắc vừa cảm thấy khó chịu.
Thấy thế, Triệu Hoằng Nhuận liền bình thản cười nói: “Ngươi cứ viết đi, ta chỉ xem đề thi thôi.”
“Vâng…” Sĩ tử ấy nghe thế thì thở phào nhẹ nhõm, tiếp tục múa bút làm bài.
“Ồ, ngày đầu tiên thi Tứ Thư văn sao?”
Sau khi liếc nhìn đề thi, Triệu Hoằng Nhuận liền bỏ đi.
Cái gọi là Tứ Thư văn chính là lấy các đoạn trích hoặc câu nói trong Tứ Thư ra làm đề thi để kiểm tra tài học của sĩ tử.
Tứ Thư là gì?
Chính là bốn quyển sách Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. Các viên quan ra đề sẽ luôn luôn lấy một đoạn văn bất kỳ, đúng một số lượng chữ nhất định, ngoài ra thì không có chú thích gì khác, từ đó có thể hiểu được mức độ tinh thông Tứ Thư của sĩ tử.
Cái gọi là Tứ Thư văn còn được gọi là phát ngôn dựa vào lời của thánh nhân, nghe tên thì biết đó chính là những đoạn văn được viết nên từ lời nói của Khổng Tử và Mạnh Tử.
Không giống với cách hành văn của các loại thi từ ca phú khác, khuôn khổ của Tứ Thư văn luôn là cố định, đoạn văn phải được viết từ tám phần Phá Đề, Thừa Đề, Khởi Giảng, Nhập Thủ, Khởi Cổ, Trung Cổ, Hậu Cổ và Thúc Cổ một cách nghiêm ngặt, ở bốn đoạn của bốn phần sau thì mỗi phần đều phải có các câu đối nghĩa nhau, tức là các câu đối, yêu cầu phải bằng trắc hợp lí.
Thế nên Tứ Thư văn còn được gọi là Bát Cổ văn.
Nhưng điều hà khắc nhất chính là, các từ ngữ, điển tích dùng trong bài văn đều phải lấy từ trong Kinh Thư hoặc lấy ra từ trong lịch sử, không được tự ý bịa ra, cũng không được mô tả phong hoa tuyết nguyệt.
Tóm lại là một loại văn thơ rất khô khan, hầu như chẳng đáng để đọc gì cả, nhưng bù lại, có thể nhờ đó mà kiểm tra được khả năng thấu hiểu và tinh thông Tứ Thư của các sĩ tử, là một cách để đo lường học thức của sĩ tử.
Mà đề thi mà sử bộ đưa ra lần này là: Khổng Tử nói với Nhan Uyên, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, chỉ có ta và ngươi là trượng phu!
Câu này lấy ra từ chương Thuật Nhi của Luận Ngữ, là một câu nói mà Khổng Tử nói với học trò của mình là Nhan Uyên. Ý nghĩa của câu này là: Khi quốc gia cần dùng đến ngươi thì ngươi hãy dùng ý kiến của mình, bộc lộ tài năng để đưa ra nhiều kế sách, còn khi quốc gia không dùng đến ngươi thì ngươi phải cất giấu đi suy nghĩ của mình. Có thể làm được điều này một cách tự nhiên, xem ra chỉ có ta và ngươi mới có thói quen và tác phong ấy mà thôi.
Theo Triệu Hoằng Nhuận thấy thì đề này chẳng có gì là khó cả, chỉ cần học thuộc Thuật Nhi thì sẽ dễ dàng hiểu được hàm ý của câu này, vấn đề ở chỗ làm sao áp dụng lời nói của thánh hiền để viết ra được một bài văn nói rõ quan điểm này.
“Khổng Tử nói với Nhan Uyên, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, chỉ có ta và ngươi là trượng phu! Khổng Tử hành tàng ra sao, Nhan Uyên trước nay luôn học hỏi theo. Việc học hỏi theo thánh nhân là điều không dễ dàng, Nhan Uyên đã biết điều này nhưng trước nay cũng chỉ có thể bàn luận. Khổng Tử lại nói, sống cả đời này, chỉ có một hai cách khiến người ta phải nể phục, mà người làm được điều ấy thật sự không nhiều, càng không tự tin mình có thể làm được, tìm được người có cùng chí hướng quả thật là điều đáng mừng, thật may là giờ đây có Nhan Uyên… Chà, sĩ tử này viết hay quá.”
Triệu Hoằng Nhuận vừa đi vừa xem các bài thi của sĩ tử.
Có nhiều sĩ tử viết rất hay, khiến cho ngay cả Triệu Hoằng Nhuận cũng tự than mình không bằng, vì dù gì cậu cũng chẳng có hứng thú. Cũng có những người viết rất lung tung, khô khan cứng nhắc, hoàn toàn chép lại y hệt lời nói của thánh hiền, không nêu chút quan điểm nào của bản thân, thế thì sao có thể gọi là phát ngôn dựa vào lời của thánh nhân? Thà cứ gọi luôn là chép lại lời của thánh nhân đi.
Ngoài ra Triệu Hoằng Nhuận còn gặp phải một kỳ tích, dịch câu nói ấy của thánh nhân thành ra như sau: Khổng Tử nói với Nhan Uyên, thứ nào dùng được thì cứ đem khoe ra, thứ nào không dùng được thì cứ giấu đi, hiểu được đạo lí này chỉ có ngươi và ta, thế mới là người có khí khái đại trượng phu trong cả thiên hạ này!
Triệu Hoằng Nhuận đọc mà ngơ ngác.
“Cái gì mà hiểu được đạo lí này chỉ có ngươi và ta, thế mới là người có khí khái đại trượng phu trong cả thiên hạ này? Ngươi dịch ra bá đạo như thế mà không thấy có vấn đề à?”
Thấy kỳ tích ấy sau khi dịch xong câu ấy thì không viết gì nữa mà ngồi phè ra uống rượu ăn thịt, hệt như đang ăn mừng vậy, Triệu Hoằng Nhuận thật sự có hơi thất kinh.
“Cái tên này rõ ràng là đến thi hội này du lịch ba ngày rồi còn gì? Đúng là thiên hạ rộng lớn, chuyện kỳ lạ gì có.”
Liếc nhìn bộ đồ gấm màu đỏ sang trọng trên người kỳ tích ấy, Triệu Hoằng Nhuận lắc đầu bỏ đi.
Theo cậu thấy, sĩ tử ấy chắc hẳn là con cháu một nhà quyền quý nào đó đến kinh thành dạo chơi, trình độ như thế mà cũng tham gia thi hội sao?
“Cũng không biết đã tốn bao nhiêu tiền để mua được lần tham gia thi hội này.”
Khẽ lắc đầu, Triệu Hoằng Nhuận gạt hình ảnh kỳ tích ấy ra khỏi đầu, cái tên ấy chẳng việc gì phải quan tâm cả, vì dù gì hắn cũng sẽ không vào được khoa bảng.
Triệu Hoằng Nhuận lại tiếp tục bước đi.
Cần phải nói thật, nếu gạt đi cái tên kỳ tích ấy thì đa phần các sĩ tử tham gia thi hội lần này có trình độ khá ổn, trong đó có vài bài văn khiến Triệu Hoằng Nhuận đọc mà thấy rất hay, nhưng dù gì hôm nay cũng chỉ mới là ngày thi đầu tiên, còn rất khó đoán định được thành tích cuối cùng.
Ngoài việc đi tìm hiểu trình độ thí sinh tham gia thi hội năm nay, Triệu Hoằng Nhuận còn âm thầm quan sát vấn đề gian lận. Nhưng theo cậu quan sát thì hoàn toàn không phát hiện vấn đề bất thường gì cả, dường như các sĩ tử đều đáp đề và viết văn một cách rất nghiêm túc.
“Chuyện này đúng là lạ, lẽ nào việc gian lận trường thi là không có sao? Hay là… có quan viên sử bộ đã nhúng tay vào rồi?”
Triệu Hoằng Nhuận lặng lẽ suy nghĩ.
Theo cậu thấy, việc gian lận trường thi chỉ có hai loại, loại thứ nhất là thí sinh tự gian lận, còn loại thứ hai là thí sinh mua chuộc khảo quan rồi gian lận, cho dù là hình thức gian lận nào thì cũng không nằm ngoài hai loại này.
Nếu là thí sinh tự gian lận thì đương nhiên sẽ lén giấu phao thi, nhưng các cán sự của miếu Phu Tử đã kiểm tra rất gắt gao, thế thì sẽ không thể xảy ra sơ suất. Nói cách khác, nếu các năm trước đây đã xảy ra nhiều hiện tượng gian lận thì chỉ có một khả năng là do có một quan viên sử bộ đã can dự vào.
Cách gian lận này nói thật ra thì rất khó bắt, vì những người can dự vào quá nhiều, trên thì có quan giám khảo, dưới thì có các chủ sự, cán sự và tạp dịch của miếu Phu Tử, tất cả đều có thể là đồng mưu, chỉ cần thủ phạm ngậm miệng không khai thì việc này khó mà điều tra ra ngọn ngành.
Trước lúc hoàng hôn, hai người tông vệ Cao Quát và Chủng Chiêu quay về, đồng thời mang về kết quả mà họ điều tra được.
Họ đã bỏ ra năm mươi lượng bạc mua chuộc một nha dịch giữ kho trong nhà kho sử bộ, lúc này mới biết thì ra trong nhà kho sử bộ còn đang chất một đống chăn mền cũ rách. Số chăn mền này đa phần là thu mua từ nhà dân trong kinh thành, giá cả chỉ khoảng từ hai đến bốn lượng mà thôi, nhưng sử bộ sau khi thu mua giá rẻ số chăn rách này về thì lại báo cáo với hộ bộ là đã trả mười lượng một tấm chăn.
Đừng tưởng một tấm chăn chỉ lời được vài lượng bạc, cần phải biết nơi này có đến hơn hai ngàn sáu trăm sĩ tử, tính ra thì họ sẽ thu về được hơn hai mươi ngàn lượng, thật sự là một món tiền khổng lồ.
“Xem ra trong triều thiếu đi một cơ quan giám sát, ví dụ như Ngự Sử Đài gì đấy… tất cả đều chỉ do một mình sử bộ tự đốc sát, ha ha!”
Hôm ấy Triệu Hoằng Nhuận liền viết lại việc này, đợi hôm sau sẽ trình lên thiên tử.
Đầu chiều, có một quan viên sử bộ đưa báo cáo chi tiêu cho khoa thi lần này đến tay Triệu Hoằng Nhuận.
Rõ ràng, cách trả thù La Vanh lúc sáng của Triệu Hoằng Nhuận đã bị các quan giám khảo ở sử bộ cho rằng là một hành động giết gà dọa khỉ.
Mà Triệu Hoằng Nhuận cũng không phủ nhận việc ấy.
“Đa tạ đại nhân, ông cứ đi làm việc đi.”
“Vâng.”
Quan viên sử bộ ấy liền cáo lui.
Thấy thế, Triệu Hoằng Nhuận mới cầm xấp báo cáo ấy lên xem kỹ.
Lúc này cậu đang ngồi trong một điện phòng nằm cạnh miếu Phu Tử, bên cạnh ngoài Thẩm Úc và Lữ Mục ra thì chỉ có tám tông vệ tùy thân.
Đúng như câu nói không ở vị trí ấy thì sẽ không biết rõ tình hình. Triệu Hoằng Nhuận hiện giờ đang là bồi giám, theo lí mà nói thì phải đi tuần tra tình hình thi cử của sĩ tử trường thi, tìm xem có tồn tại hiện tượng gian lận không. Nhưng vấn đề ở chỗ, cả miếu Phu Tử có đến hơn hai ngàn sáu trăm thí sinh, chỉ dựa vào cậu và tám tông vệ thì sao có thể cùng lúc kiểm soát hết hơn hai ngàn sáu trăm người chứ?
Chạy đến rụng chân cũng không soát hết được!
Thế nên, Triệu Hoằng Nhuận cũng không vội vã đi bắt gian lận, dù gì đối với cậu mà nói, việc giáo huấn La Văn Trung mới là mục đích chính lần này, còn việc gian lận trong trường thi thì phải xem liệu có tìm được manh mối gì không đã.
Nếu thật sự có thể tìm được thì Triệu Hoằng Nhuận cũng không ngại giúp Đại Ngụy chỉnh đốn lại khoa trường, vì nếu Đại Ngụy càng ổn định thì một hoàng tử như cậu cũng sẽ càng ổn định, mục tiêu làm một nhàn vương của cậu càng dễ thực hiện.
Nhấc chén trà bên cạnh lên nhấp vài ngụm, Triệu Hoằng Nhuận lại đưa mắt nhìn vào báo cáo trong tay.
Đúng như cậu đã nghĩ, bảng báo cáo này của sử bộ quả thực có sự làm giả.
“Bốn mươi sáu ngàn ba trăm lượng… Ha!”
Triệu Hoằng Nhuận khẽ lắc đầu.
Theo ghi chép của bảng báo cáo này thì sử bộ lần này đã đề nghị hộ bộ cấp cho đúng bốn mươi sáu ngàn ba trăm lượng bạc, dùng để sửa chữa duy tu gần ba ngàn Hiệu Phòng trong miếu Phu Tử, ngoài ra còn có các vật dụng trong Hiệu Phòng, đèn đóm cấp cho các sĩ tử và khoản tiền thưởng dành cho các quan viên và tạp dịch tham gia thi hội lần này.
Các dòng chữ ngay ngắn chi tiết này nhìn thì có vẻ chẳng có vấn đề gì, nhưng Triệu Hoằng Nhuận đã tận mắt nhìn thấy mấy Hiệu Phòng rách nát đơn sơ ấy, thế nên cậu tuyệt đối không tin được sử bộ đã đem hết hơn một nửa số bạc ấy để tu sửa Hiệu Phòng.
Một cái chăn mà mười lượng? Đang đùa chắc?
Triệu Hoằng Nhuận không thể tưởng tượng được mấy cái chăn mỏng dính chẳng có bao nhiêu bông vải, lại còn đầy mùi ẩm mốc hệt như mấy ngày rồi không đem từ trong kho ra phơi ở Hiệu Phòng ấy mà lại đáng giá đến mười lượng.
Cần phải biết Triệu Hoằng Nhuận khi ở trong cung tìm nội thị giám bảo làm cho một cái chăn dày nhét đầy bông vải mới toanh thì cũng chỉ phải mất mười mấy lượng thôi.
“Cao Quát, Chủng Chiêu, hai người đi điều tra thử xem. Ta muốn biết xem mấy cái chăn bông này có nguồn gốc thế nào… Đến nhà kho của sử bộ tìm thử, cho tạp dịch ở đó một ít bạc rồi bảo chúng mở miệng, nếu đưa bạc rồi mà vẫn không chịu khai ra thì hai người tự nghĩ cách khác.”
“Vâng.” Tông vệ Cao Quát và Chủng Chiêu chắp tay rồi bước đi.
Lúc này, Triệu Hoằng Nhuận cất bảng báo cáo vào người rồi cùng sáu tông vệ còn lại bước ra ngoài, đi đến Hiệu Phòng.
Hơn ba ngàn Hiệu Phòng ấy nếu nhìn thằng từ trên cao xuống thì sẽ nằm sắp xếp tạo thành một chữ Hồi, tức là bên ngoài có một vòng, bên trong lại có một vòng, nằm đối diện nhau. Thế nên, khi đi giữa hành lang hẹp ấy thì có thể nhìn được các Hiệu Phòng ở hai bên trái phải, thấy rõ các sĩ tử trong Hiệu Phòng đang cặm cụi làm bài.
Triệu Hoằng Nhuận tò mò bước đến một Hiệu Phòng rồi nghiêng người nhìn vào bài thi của một sĩ tử trong ấy.
“…” Có vẻ như nhận ra, sĩ tử ấy liền ngẩng đầu rồi ngơ ngác nhìn Triệu Hoằng Nhuận đang đeo mặt nạ, vừa thắc mắc vừa cảm thấy khó chịu.
Thấy thế, Triệu Hoằng Nhuận liền bình thản cười nói: “Ngươi cứ viết đi, ta chỉ xem đề thi thôi.”
“Vâng…” Sĩ tử ấy nghe thế thì thở phào nhẹ nhõm, tiếp tục múa bút làm bài.
“Ồ, ngày đầu tiên thi Tứ Thư văn sao?”
Sau khi liếc nhìn đề thi, Triệu Hoằng Nhuận liền bỏ đi.
Cái gọi là Tứ Thư văn chính là lấy các đoạn trích hoặc câu nói trong Tứ Thư ra làm đề thi để kiểm tra tài học của sĩ tử.
Tứ Thư là gì?
Chính là bốn quyển sách Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử. Các viên quan ra đề sẽ luôn luôn lấy một đoạn văn bất kỳ, đúng một số lượng chữ nhất định, ngoài ra thì không có chú thích gì khác, từ đó có thể hiểu được mức độ tinh thông Tứ Thư của sĩ tử.
Cái gọi là Tứ Thư văn còn được gọi là phát ngôn dựa vào lời của thánh nhân, nghe tên thì biết đó chính là những đoạn văn được viết nên từ lời nói của Khổng Tử và Mạnh Tử.
Không giống với cách hành văn của các loại thi từ ca phú khác, khuôn khổ của Tứ Thư văn luôn là cố định, đoạn văn phải được viết từ tám phần Phá Đề, Thừa Đề, Khởi Giảng, Nhập Thủ, Khởi Cổ, Trung Cổ, Hậu Cổ và Thúc Cổ một cách nghiêm ngặt, ở bốn đoạn của bốn phần sau thì mỗi phần đều phải có các câu đối nghĩa nhau, tức là các câu đối, yêu cầu phải bằng trắc hợp lí.
Thế nên Tứ Thư văn còn được gọi là Bát Cổ văn.
Nhưng điều hà khắc nhất chính là, các từ ngữ, điển tích dùng trong bài văn đều phải lấy từ trong Kinh Thư hoặc lấy ra từ trong lịch sử, không được tự ý bịa ra, cũng không được mô tả phong hoa tuyết nguyệt.
Tóm lại là một loại văn thơ rất khô khan, hầu như chẳng đáng để đọc gì cả, nhưng bù lại, có thể nhờ đó mà kiểm tra được khả năng thấu hiểu và tinh thông Tứ Thư của các sĩ tử, là một cách để đo lường học thức của sĩ tử.
Mà đề thi mà sử bộ đưa ra lần này là: Khổng Tử nói với Nhan Uyên, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, chỉ có ta và ngươi là trượng phu!
Câu này lấy ra từ chương Thuật Nhi của Luận Ngữ, là một câu nói mà Khổng Tử nói với học trò của mình là Nhan Uyên. Ý nghĩa của câu này là: Khi quốc gia cần dùng đến ngươi thì ngươi hãy dùng ý kiến của mình, bộc lộ tài năng để đưa ra nhiều kế sách, còn khi quốc gia không dùng đến ngươi thì ngươi phải cất giấu đi suy nghĩ của mình. Có thể làm được điều này một cách tự nhiên, xem ra chỉ có ta và ngươi mới có thói quen và tác phong ấy mà thôi.
Theo Triệu Hoằng Nhuận thấy thì đề này chẳng có gì là khó cả, chỉ cần học thuộc Thuật Nhi thì sẽ dễ dàng hiểu được hàm ý của câu này, vấn đề ở chỗ làm sao áp dụng lời nói của thánh hiền để viết ra được một bài văn nói rõ quan điểm này.
“Khổng Tử nói với Nhan Uyên, dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, chỉ có ta và ngươi là trượng phu! Khổng Tử hành tàng ra sao, Nhan Uyên trước nay luôn học hỏi theo. Việc học hỏi theo thánh nhân là điều không dễ dàng, Nhan Uyên đã biết điều này nhưng trước nay cũng chỉ có thể bàn luận. Khổng Tử lại nói, sống cả đời này, chỉ có một hai cách khiến người ta phải nể phục, mà người làm được điều ấy thật sự không nhiều, càng không tự tin mình có thể làm được, tìm được người có cùng chí hướng quả thật là điều đáng mừng, thật may là giờ đây có Nhan Uyên… Chà, sĩ tử này viết hay quá.”
Triệu Hoằng Nhuận vừa đi vừa xem các bài thi của sĩ tử.
Có nhiều sĩ tử viết rất hay, khiến cho ngay cả Triệu Hoằng Nhuận cũng tự than mình không bằng, vì dù gì cậu cũng chẳng có hứng thú. Cũng có những người viết rất lung tung, khô khan cứng nhắc, hoàn toàn chép lại y hệt lời nói của thánh hiền, không nêu chút quan điểm nào của bản thân, thế thì sao có thể gọi là phát ngôn dựa vào lời của thánh nhân? Thà cứ gọi luôn là chép lại lời của thánh nhân đi.
Ngoài ra Triệu Hoằng Nhuận còn gặp phải một kỳ tích, dịch câu nói ấy của thánh nhân thành ra như sau: Khổng Tử nói với Nhan Uyên, thứ nào dùng được thì cứ đem khoe ra, thứ nào không dùng được thì cứ giấu đi, hiểu được đạo lí này chỉ có ngươi và ta, thế mới là người có khí khái đại trượng phu trong cả thiên hạ này!
Triệu Hoằng Nhuận đọc mà ngơ ngác.
“Cái gì mà hiểu được đạo lí này chỉ có ngươi và ta, thế mới là người có khí khái đại trượng phu trong cả thiên hạ này? Ngươi dịch ra bá đạo như thế mà không thấy có vấn đề à?”
Thấy kỳ tích ấy sau khi dịch xong câu ấy thì không viết gì nữa mà ngồi phè ra uống rượu ăn thịt, hệt như đang ăn mừng vậy, Triệu Hoằng Nhuận thật sự có hơi thất kinh.
“Cái tên này rõ ràng là đến thi hội này du lịch ba ngày rồi còn gì? Đúng là thiên hạ rộng lớn, chuyện kỳ lạ gì có.”
Liếc nhìn bộ đồ gấm màu đỏ sang trọng trên người kỳ tích ấy, Triệu Hoằng Nhuận lắc đầu bỏ đi.
Theo cậu thấy, sĩ tử ấy chắc hẳn là con cháu một nhà quyền quý nào đó đến kinh thành dạo chơi, trình độ như thế mà cũng tham gia thi hội sao?
“Cũng không biết đã tốn bao nhiêu tiền để mua được lần tham gia thi hội này.”
Khẽ lắc đầu, Triệu Hoằng Nhuận gạt hình ảnh kỳ tích ấy ra khỏi đầu, cái tên ấy chẳng việc gì phải quan tâm cả, vì dù gì hắn cũng sẽ không vào được khoa bảng.
Triệu Hoằng Nhuận lại tiếp tục bước đi.
Cần phải nói thật, nếu gạt đi cái tên kỳ tích ấy thì đa phần các sĩ tử tham gia thi hội lần này có trình độ khá ổn, trong đó có vài bài văn khiến Triệu Hoằng Nhuận đọc mà thấy rất hay, nhưng dù gì hôm nay cũng chỉ mới là ngày thi đầu tiên, còn rất khó đoán định được thành tích cuối cùng.
Ngoài việc đi tìm hiểu trình độ thí sinh tham gia thi hội năm nay, Triệu Hoằng Nhuận còn âm thầm quan sát vấn đề gian lận. Nhưng theo cậu quan sát thì hoàn toàn không phát hiện vấn đề bất thường gì cả, dường như các sĩ tử đều đáp đề và viết văn một cách rất nghiêm túc.
“Chuyện này đúng là lạ, lẽ nào việc gian lận trường thi là không có sao? Hay là… có quan viên sử bộ đã nhúng tay vào rồi?”
Triệu Hoằng Nhuận lặng lẽ suy nghĩ.
Theo cậu thấy, việc gian lận trường thi chỉ có hai loại, loại thứ nhất là thí sinh tự gian lận, còn loại thứ hai là thí sinh mua chuộc khảo quan rồi gian lận, cho dù là hình thức gian lận nào thì cũng không nằm ngoài hai loại này.
Nếu là thí sinh tự gian lận thì đương nhiên sẽ lén giấu phao thi, nhưng các cán sự của miếu Phu Tử đã kiểm tra rất gắt gao, thế thì sẽ không thể xảy ra sơ suất. Nói cách khác, nếu các năm trước đây đã xảy ra nhiều hiện tượng gian lận thì chỉ có một khả năng là do có một quan viên sử bộ đã can dự vào.
Cách gian lận này nói thật ra thì rất khó bắt, vì những người can dự vào quá nhiều, trên thì có quan giám khảo, dưới thì có các chủ sự, cán sự và tạp dịch của miếu Phu Tử, tất cả đều có thể là đồng mưu, chỉ cần thủ phạm ngậm miệng không khai thì việc này khó mà điều tra ra ngọn ngành.
Trước lúc hoàng hôn, hai người tông vệ Cao Quát và Chủng Chiêu quay về, đồng thời mang về kết quả mà họ điều tra được.
Họ đã bỏ ra năm mươi lượng bạc mua chuộc một nha dịch giữ kho trong nhà kho sử bộ, lúc này mới biết thì ra trong nhà kho sử bộ còn đang chất một đống chăn mền cũ rách. Số chăn mền này đa phần là thu mua từ nhà dân trong kinh thành, giá cả chỉ khoảng từ hai đến bốn lượng mà thôi, nhưng sử bộ sau khi thu mua giá rẻ số chăn rách này về thì lại báo cáo với hộ bộ là đã trả mười lượng một tấm chăn.
Đừng tưởng một tấm chăn chỉ lời được vài lượng bạc, cần phải biết nơi này có đến hơn hai ngàn sáu trăm sĩ tử, tính ra thì họ sẽ thu về được hơn hai mươi ngàn lượng, thật sự là một món tiền khổng lồ.
“Xem ra trong triều thiếu đi một cơ quan giám sát, ví dụ như Ngự Sử Đài gì đấy… tất cả đều chỉ do một mình sử bộ tự đốc sát, ha ha!”
Hôm ấy Triệu Hoằng Nhuận liền viết lại việc này, đợi hôm sau sẽ trình lên thiên tử.