Chương : 5
Địa ngục có tồn tại, và giờ đây tôi hiểu rằng nỗi khiếp sợ nó chỉ là những mẩu của thiên đường.
Alec COVIN
- Trả lại cậu dụng cụ này, cậu có thể hoàn trả nó cho chủ sở hữu, Milo vừa nói vừa chìa cho Carole cái búa nhổ đinh cô đã cho anh mượn.
- Chủ sở hữu của nó, đó là bang California, nữ sĩ quan cảnh sát trẻ trả lời rồi đặt chiếc búa vào cốp xe.
Santa Monica
7 giờ tối
- Cảm ơn vì đã tới đón tớ.
- Xe của cậu đâu?
- Tớ cho Tom mượn rồi.
- Tom làm gì còn bằng lái!
- Nói thật là cậu ta đang nổi khùng với tớ, Milo thừa nhận, mặt cúi gằm.
- Cậu đã thú nhận sự thật với cậu ấy rồi à? cô lo lắng hỏi.
- Ừ, nhưng làm thế không khích được cậu ta làm việc trở lại.
- Tớ đã nói rồi mà.
Cô đóng cửa xe và họ sóng bước bên nhau đi dọc chiếc cầu treo dẫn ra bãi biển.
- Nhưng tóm lại, Milo bực dọc nói, cậu không thấy thế là điên rồ sao: để mình bị hủy hoại vì mấy cái chuyện yêu đương?
Cô đưa mắt nhìn anh, vẻ buồn rầu:
- Có thể như thế là điên rồ, nhưng chuyện ấy vẫn xảy ra hằng ngày. Còn tớ thì tớ thấy như thế thật cảm động và rất con người.
Anh nhún vai rồi để cô đi trước mình một chút.
Với dáng vẻ cao lớn, nước da bánh mật, mái tóc đen bóng cùng đôi mắt trong như làn nước, trông Carole Alvarez như một nàng công chúa thổ dân Maya.
Là dân gốc El Salvador, cô tới Mỹ năm lên chín. Milo và Tom quen biết cô từ thời thơ ấu. Gia đình họ - hoặc những gì còn lại của gia đình họ - cùng sống trong tòa nhà tồi tàn ở MacArthur Park, Spanish Harlem của Los Angeles, địa điểm ưa thích của những kẻ nghiện ngập và chuộng thanh toán nhau bằng vũ khí tự động.
Cả ba đã cùng nhau sống trong cảnh khốn quẫn, giữa những tòa nhà bẩn thỉu, những vỉa hè ngập đầy rác rưởi và những cửa hàng với những tấm cửa sắt xập xệ, sơn vẽ nham nhở.
- Ngồi nghỉ một lát chứ? cô đề xuất rồi trải ra một chiếc khăn.
Milo tiến lại chỗ cô đang ngồi trên bãi cát trắng. Những con sóng tràn vào bờ, để lại lớp bọt màu ánh bạc chờm lên bàn chân trần của những người đi dạo.
Chỉ náo nhiệt khi hè tới, vào một buổi chiều tà mùa thu như hôm nay bãi biển tĩnh lặng hơn nhiều. Từ hơn một thế kỷ nay, bờ đê chắn sóng bằng gỗ vững chãi nổi tiếng của Santa Monica là nơi tiếp đón dân Los Angeles đến xả stress và trốn chạy không khí ồn ào náo nhiệt của thành phố sau một ngày làm việc.
Carole xắn tay áo sơ mi, cởi giầy, nhắm hai mắt lại rồi ngửa mặt lên hứng gió và ánh mặt trời như nắng hè này. Milo nhìn cô với vẻ trìu mến nhói đau.
Giống như anh, cuộc đời chẳng hào phóng gì với cô. Năm 1992 khi cô gần mười lăm tuổi, cha dượng cô bị bắn chết trong vụ cướp tại cửa hàng thực phẩm của ông, giữa lúc đang xảy ra những cuộc bạo loạn đã thiêu rụi các khu phố nghèo tại Los Angeles. Sau thảm kịch, cô trốn tránh trung tâm bảo trợ xã hội để không bị nhận làm con nuôi, rồi hay lui tới nhà Black Mamma, người có ngoại hình giống hệt Tina Turner và từng làm gái điếm với thành tích cho cả nửa số đàn ông tại MacArthur Park nếm mùi đời. Cô vẫn tiếp tục vừa học vừa làm, được chăng hay chớ: phục vụ bàn tại Pizza Hut, bán hàng tại các cửa hàng trang sức giá rẻ, làm chiêu đãi viên cho các hội nghị hạng xoàng. Rồi bất ngờ cô thi đỗ ngay vào trường cảnh sát, gia nhập Lực lượng cảnh sát Los Angeles khi mới hai mươi hai, sau đó cô được thăng cấp với tốc độ chóng mặt: ban đầu là sĩ quan, rồi điều tra viên và mới cách đây vài ngày là lon trung sĩ.
- Gần đây cậu có nói chuyện điện thoại với Tom không?
- Tớ gửi cho cậu ấy hai tin nhắn mỗi ngày, Carole vừa mở mắt ra vừa đáp, nhưng cùng lắm cũng chỉ nhận được những câu trả lời cụt lủn.
Cô nhìn Milo chằm chằm:
- Giờ bọn mình biết làm gì giúp cậu ấy đây?
- Đầu tiên là ngăn không cho cậu ta tự hủy hoại mình, anh đáp đồng thời lôi từ túi áo ra mấy tuýp thuốc ngủ và chống trầm cảm vừa xoáy được.
- Cậu có biết rằng trong tất cả những chuyện này có một phần là lỗi của cậu không hả?
- Aurore bỏ cậu ta cũng là lỗi của tớ à? anh cãi lại.
- Cậu biết rõ là tớ đang định nói gì mà.
- Xảy ra khủng hoảng tài chính thế giới là lỗi của tớ hả? Madoff lừa đảo 50 tỷ đô la cũng là lỗi của tớ hả? Vả lại, hãy trả lời tớ thật lòng: cậu nghĩ thế nào về cô gái đó?
Carole nhún vai tỏ vẻ bất lực.
- Tớ không biết, nhưng tớ chắc chắn cô ta sinh ra không phải để dành cho cậu ấy.
Ở đằng xa, trên đê chắn sóng, buổi hội chợ đang đến hồi đông đúc nhất. Tiếng trẻ con la hét hòa với mùi kẹo bông và mứt táo. Với bánh xe khổng lồ và những trò chơi tụt dốc, công viên giải trí được xây dựng ngay trên mặt nước, đối diện với hòn đảo nhỏ Santa Catalina hiện ra thấp thoáng nhận thấy qua màn sương mờ.
Milo thở dài:
- Tớ lo rằng rồi sẽ chẳng có ai biết được đoạn kết của Bộ ba Thiên thần.
- Tớ biết đấy, Carole bình thản đáp lời.
- Cậu biết kết thúc của câu chuyện hả?
- Tom đã kể tớ nghe.
- Thật không? Bao giờ?
Ánh mắt cô bối rối.
- Lâu rồi, cô trả lời bâng quơ.
Milo nhíu mày. Cảm giác ngạc nhiên pha lẫn với một chút thất vọng. Anh tưởng mình biết mọi chuyện về cuộc đời Carole: gần như ngày nào họ cũng gặp nhau, cô là người bạn thân nhất của anh, gia đình duy nhất thực sự của anh và - dù cho anh không chịu thừa nhận - là người phụ nữ duy nhất anh có cảm tình.
Vẻ lơ đãng, Milo nhìn ra bãi biển. Giống như trong phim truyền hình, một vài người dũng cảm đang đối mặt với những con sóng trên tấm ván trượt, trong khi các nhân viên giám sát bãi biển với thân hình đáng mơ ước thì quan sát từ căn lều gỗ của họ. Nhưng Milo nhìn mà chẳng thấy mấy người đó, bởi anh chỉ quan tâm tới Carole.
Giữa họ là một sợi dây gắn kết rất bền chặt, bắt nguồn từ thuở ấu thơ, pha trộn giữa cảm giác ngượng ngùng và sự tôn trọng lẫn nhau. Dù chưa bao giờ dám thổ lộ tình cảm của mình song anh quan tâm, chăm sóc Carole như gìn giữ con ngươi của mắt mình và lo lắng cho cô bởi những hiểm nguy trong nghề cảnh sát. Cô không hề hay biết điều ấy nhưng nhiều đêm, Milo đã lái xe tới ngủ trong hầm giữ xe tại tòa nhà cô ở chỉ để có được cảm giác yên tâm là đang ở gần cô. Sự thật là anh sợ mất cô hơn bất cứ thứ gì khác trên đời dù cho chính bản thân anh cũng không hiểu mất cô là như thế nào: lo sợ cô lao vào tàu hỏa? Hay bị trúng đạn lạc khi lùng bắt một con nghiện? Hay đúng hơn là cam chịu nhìn cô vui vẻ trong vòng tay một người đàn ông khác?
o O o
Carole đeo kính râm vào rồi cởi thêm một cúc áo. Dù trời nóng nhưng Milo cố chịu, không xắn tay áo lên. Phía trên cánh tay anh có xăm những dấu hiệu bí hiểm, đó là bằng chứng không thể xóa nhòa của thời kỳ anh là thành viên của MS-13, còn được gọi là Mara Salvatrucha, một băng nhóm vô cùng hung hãn lộng hành khắp các khu nhà tù tại MacArthur Park. Năm mười hai tuổi, do vô công rỗi nghề mà anh đã gia nhập băng này. Mẹ là người Ailen còn bố là người Mêhicô, Milo được các thành viên MS-13 coi là một “chicano” - một người Mỹ gốc Mêhicô. Băng nhóm toàn thanh niên Salvador nhập cư này đã bắt anh phải thực hiện nghi lễ corton: nghi lễ nhập hội gồm màn cưỡng hiếp tập thể đối với các cô gái và đánh nhừ tử trong vòng nửa tiếng đối với đám con trai. Một hành động phi lý để chứng tỏ lòng dũng cảm, khả năng chịu đựng cũng như lòng trung thành của kẻ muốn nhập hội, nhưng đôi khi màn nhập hội này cũng kết thúc trong vũng máu.
Dù còn ít tuổi nhưng Milo cũng đã “sống sót” qua màn nhập hội ấy, rồi trong hơn hai năm, anh đã ăn trộm ô tô, buôn bán ma túy, tống tiền dân làm ăn và buôn súng cho Mara. Mười lăm tuổi, anh biến thành một loài thú dữ mà cuộc sống chỉ bị chi phối bởi bạo lực và nỗi sợ hãi. Mắc kẹt trong cái vòng tròn luẩn quẩn ấy, tương lai chỉ nhắm đến cái chết hoặc nhà tù, anh đã được giải cứu nhờ tài trí của Tom và tình cảm của Carole, hai người họ đã đưa anh ra khỏi địa ngục, phủ nhận nguyên tắc không thể rời khỏi Mara, chỉ trừ khi chết.
Mặt trời buổi hoàng hôn đang rọi xuống những tia nắng cuối cùng. Milo chớp chớp mắt, vừa để bảo vệ mắt trước tia nắng vừa để tìm lại kỷ niệm cùng những nỗi đau của quá khứ.
- Tớ mời cậu đi ăn hải sản nhé? anh đứng phắt dậy đề xuất.
- Thiết nghĩ với những gì còn lại trong tài khoản của cậu, có lẽ tớ nên là người mời, Carole nhận xét.
- Đó sẽ là một cách ăn mừng cậu được thăng cấp, anh vừa nói vừa chìa tay giúp cô đứng dậy.
Họ rời bãi biển chẳng chút hào hứng và đi bộ một quãng dọc con đường dành cho xe đạp nối liền Venice Beach và Santa Monica.
Rồi họ đi vào Third Street Promenade, một con phố rộng, mặt đường lát đá còn hai bên trồng toàn cọ, ở đây toàn là các phòng trưng bày nghệ thuật và các nhà hàng thời thượng.
Họ đến ngồi ở hàng hiên của quán bia Anisette, thực đơn ở đây được viết bằng tiếng Pháp với những món ăn có cái tên xa lạ như rau diếp xoăn quấn mỡ khổ, lườn bò tẩm hành hay táo Dauphiné.
Milo gọi một thứ rượu khai vị có tên pastis, được đựng trong một ly lớn đầy đá theo kiểu California.
Bất chấp màn diễn của các nghệ sĩ tung hứng, nhạc công rồi người diễn trò khạc lửa khiến cho khu phố náo nhiệt hẳn lên, bữa tối vẫn ủ ê. Carole buồn bã còn Milo như bị tra tấn và nặng trĩu cảm giác tội lỗi. Cuộc trò chuyện xoay quanh Tom và Aurore.
- Cậu có biết tại sao cậu ấy viết không? đang giữa bữa ăn, đột nhiên Milo hỏi khi nhận ra mình không biết một điểm cốt yếu trong tâm lý bạn mình.
- Thế là thế nào?
- Tớ biết Tom lúc nào cũng thích đọc, thế nhưng viết lách lại là chuyện khác. Và khi còn niên thiếu cậu hiểu rõ cậu ấy hơn tớ. Vậy thì vào lúc ấy, điều gì đã thôi thúc cậu ấy viết câu chuyện đầu tiên?
- Tớ không biết, Carole vội vã đáp lời.
Nhưng về điểm này, cô đã nói dối.
o O o
Malibu
8 giờ tối
Sau khi lang thang trong thành phố, tôi đỗ chiếc Bugatti có nguy cơ bị tịch biên trước cửa ngôi nhà mà tôi vừa biết rằng nó không còn thuộc về mình nữa. Vài giờ trước, tôi ở dưới đáy vực thẳm nhưng ngồi trên một gia sản 10 triệu đô la. Còn giờ đây, đúng là tôi ở dưới đáy vực thẳm...
Kiệt quệ, mệt đến đứt hơi dù chẳng hề chạy, tôi thả mình xuống tràng kỷ, mắt nhìn vô hồn vào đám xà ngang dọc chằng chịt chống đỡ mái nhà thoai thoải.
Đầu đau nhức, lưng mỏi nhừ, đôi bàn tay xâm xấp mồ hôi còn dạ dày thì cứ quặn thắt lên. Tim đập thình thịch trong lồng ngực khiến tôi tức thở; lòng tôi trống rỗng, bị cảm giác nóng rực thiêu đốt, cảm giác ấy cuối cùng cũng đã trả thù được tôi.
Bao năm nay, tôi miệt mài viết đến trắng đêm, dốc vào đó mọi cảm xúc cũng như năng lượng của mình. Rồi tôi còn dự bao buổi họp báo, ký tặng sách cho độc giả khắp nơi trên thế giới. Tôi đã thành lập một tổ chức từ thiện nhằm giúp trẻ em trong khu phố trước kia tôi từng sống được học nghệ thuật. Và trong một vài buổi hòa nhạc, tôi thậm chí còn biểu diễn cùng các “thần tượng” của mình: nhóm Rock Bottom Remainders[1].
Nhưng giờ đây tôi chẳng còn hứng thú với bất cứ điều gì: con người, sách vở, âm nhạc và thậm chí cả những ánh hoàng hôn trên đại dương.
Tôi cố gắng đứng dậy ra tựa khuỷu tay vào lan can sân hiên một lúc. Ở dưới kia, trên bãi biển là một chiếc Chrysler cổ màu vàng vỏ gỗ đánh véc ni, di sản của thời kỳ Beach Boys, đang ngạo nghễ giương ra trên tấm kính phía sau câu khẩu hiệu của thành phố: Malibu, where the mountain meets the sea[2].
Tôi nhìn về phía đường viền sáng rực nơi chân trời đang soi sáng cả bầu trời trước khi bị những con sóng cuốn trôi, tôi cứ nhìn như thế cho tới khi mắt nhòa đi. Cảnh tượng xưa kia từng hớp hồn tôi giờ chẳng gợi lên trong tôi chút cảm xúc nào. Tôi chẳng cảm thấy gì nữa, cứ như thể kho xúc cảm đã cạn kiệt.
Chỉ một thứ có thể cứu rỗi tôi vào lúc này: được gặp lại Aurore, cơ thể mảnh mai của nàng, làn da mịn màng, đôi mắt ánh bạc cùng mùi hương như mùi cát nơi nàng. Nhưng tôi hiểu điều ấy chẳng bao giờ xảy ra. Tôi hiểu mình đã thua cuộc và trong trận chiến ấy, tôi chẳng còn lại gì ngoài mong muốn đốt cháy những nơ ron thần kinh của mình bằng những thứ thuốc an thần hoặc bằng bất cứ thứ gì dơ bẩn khác có thể có.
Tôi cần phải ngủ. Quay vào phòng khách, tôi cuống cuồng tìm thuốc nhưng tôi đoán Milo đã tống hết chúng đi. Tôi chạy vào bếp, bới trong túi rác. Chẳng có gì. Hoảng sợ, tôi lao xuống tầng dưới, mở tất cả các ngăn tủ ra tìm chiếc túi du lịch. Nằm gọn trong một ngăn nhỏ, hộp thuốc ngủ dùng dở cùng vài viên chống trầm cảm vẫn còn sót lại từ chuyến đi Dubai quảng bá sách gần đây nhất, một buổi ký tặng sách tại một nhà sách lớn ở Mall of the Emirates.
Gần như miễn cưỡng, tôi dốc tất cả những viên thuốc con nhộng vào lòng bàn tay rồi ngồi một lúc nhìn nắm thuốc màu xanh và trắng dường như đang coi thường tôi:
Nào, cứ thử xem!
Tôi chưa bao giờ cảm thấy trống rỗng đến vậy. Trong đầu tôi, những hình ảnh khủng khiếp lộn xộn hiện ra: thân thể tôi treo trên một sợi dây thừng, vòi gaz trong miệng tôi, nòng súng nơi thái dương tôi. Không sớm thì muộn cuộc đời tôi chắc hẳn rồi cũng sẽ kết thúc theo cách như vậy. Trong sâu thẳm lòng mình chẳng phải tôi vẫn luôn biết điều đó sao?
Nào, cứ thử xem!
Tôi cho cả vốc thuốc vào mồm như thể đó là một lối thoát. Tôi không nuốt nổi nhưng một ngụm nước khoáng sẽ cuốn trôi tất cả.
Uống xong tôi lê bước tới tận phòng ngủ rồi đổ ập xuống giường.
Bầu không khí trống rỗng và lạnh lẽo, bao quanh là một bức tường kính phản quang lớn màu lam, đủ độ trong để đón ánh sáng bên ngoài.
Tôi co rúm người lại dưới tấm chăn, bị những suy nghĩ bệnh hoạn quật ngã.
Treo trên bức tường trắng, cặp tình nhân trong tranh của Marc Chagall nhìn tôi đầy thương hại, cứ như họ thấy tiếc vì không thể xoa dịu nỗi đau trong tôi. Trước cả khi tôi mua nhà (mà giờ đây không còn là nhà của tôi nữa) và trước cả khi tôi mua nhẫn cho Aurore (giờ đây cũng không còn là Aurore của tôi nữa), việc tôi mua bức tranh của họa sĩ người Nga là điều điên rồ đầu tiên tôi làm. Mang cái tên giản dị, Lovers in Blue, bức tranh của Chagall vẽ từ năm 1914. Tôi đã ngay lập tức say mê bức tranh vẽ cặp tình nhân đang ôm siết lấy nhau, hòa hợp trong một tình yêu bí hiểm, chân thành và êm dịu này. Với tôi, nó biểu trưng cho việc hai con người bị tổn thương được chữa lành vết đau, gắn bó với nhau để rồi chỉ còn cùng sẻ chia một vết sẹo.
Trong lúc nhẹ nhàng rơi vào một giấc ngủ sâu, tôi có cảm tưởng mình đang dần xa rời những nỗi đau trần thế. Thân thể tôi tan biến, ý thức xa rời tôi, cuộc sống rời bỏ tôi...
Chú thích
[1] Nhóm nhạc Rock bao gồn các nhà văn nổi tiếng - Stephen King, Scott Turow, Matt Groening, Mitch Albom... - họ biểu diễn để gây quỹ tài trợ cho các dự án xóa mù chữ.
[2] Tiếng Anh trong nguyên bản: Mlibu, nơi núi non gặp gỡ biễn cả. (Chú thích của tác giả.)
Alec COVIN
- Trả lại cậu dụng cụ này, cậu có thể hoàn trả nó cho chủ sở hữu, Milo vừa nói vừa chìa cho Carole cái búa nhổ đinh cô đã cho anh mượn.
- Chủ sở hữu của nó, đó là bang California, nữ sĩ quan cảnh sát trẻ trả lời rồi đặt chiếc búa vào cốp xe.
Santa Monica
7 giờ tối
- Cảm ơn vì đã tới đón tớ.
- Xe của cậu đâu?
- Tớ cho Tom mượn rồi.
- Tom làm gì còn bằng lái!
- Nói thật là cậu ta đang nổi khùng với tớ, Milo thừa nhận, mặt cúi gằm.
- Cậu đã thú nhận sự thật với cậu ấy rồi à? cô lo lắng hỏi.
- Ừ, nhưng làm thế không khích được cậu ta làm việc trở lại.
- Tớ đã nói rồi mà.
Cô đóng cửa xe và họ sóng bước bên nhau đi dọc chiếc cầu treo dẫn ra bãi biển.
- Nhưng tóm lại, Milo bực dọc nói, cậu không thấy thế là điên rồ sao: để mình bị hủy hoại vì mấy cái chuyện yêu đương?
Cô đưa mắt nhìn anh, vẻ buồn rầu:
- Có thể như thế là điên rồ, nhưng chuyện ấy vẫn xảy ra hằng ngày. Còn tớ thì tớ thấy như thế thật cảm động và rất con người.
Anh nhún vai rồi để cô đi trước mình một chút.
Với dáng vẻ cao lớn, nước da bánh mật, mái tóc đen bóng cùng đôi mắt trong như làn nước, trông Carole Alvarez như một nàng công chúa thổ dân Maya.
Là dân gốc El Salvador, cô tới Mỹ năm lên chín. Milo và Tom quen biết cô từ thời thơ ấu. Gia đình họ - hoặc những gì còn lại của gia đình họ - cùng sống trong tòa nhà tồi tàn ở MacArthur Park, Spanish Harlem của Los Angeles, địa điểm ưa thích của những kẻ nghiện ngập và chuộng thanh toán nhau bằng vũ khí tự động.
Cả ba đã cùng nhau sống trong cảnh khốn quẫn, giữa những tòa nhà bẩn thỉu, những vỉa hè ngập đầy rác rưởi và những cửa hàng với những tấm cửa sắt xập xệ, sơn vẽ nham nhở.
- Ngồi nghỉ một lát chứ? cô đề xuất rồi trải ra một chiếc khăn.
Milo tiến lại chỗ cô đang ngồi trên bãi cát trắng. Những con sóng tràn vào bờ, để lại lớp bọt màu ánh bạc chờm lên bàn chân trần của những người đi dạo.
Chỉ náo nhiệt khi hè tới, vào một buổi chiều tà mùa thu như hôm nay bãi biển tĩnh lặng hơn nhiều. Từ hơn một thế kỷ nay, bờ đê chắn sóng bằng gỗ vững chãi nổi tiếng của Santa Monica là nơi tiếp đón dân Los Angeles đến xả stress và trốn chạy không khí ồn ào náo nhiệt của thành phố sau một ngày làm việc.
Carole xắn tay áo sơ mi, cởi giầy, nhắm hai mắt lại rồi ngửa mặt lên hứng gió và ánh mặt trời như nắng hè này. Milo nhìn cô với vẻ trìu mến nhói đau.
Giống như anh, cuộc đời chẳng hào phóng gì với cô. Năm 1992 khi cô gần mười lăm tuổi, cha dượng cô bị bắn chết trong vụ cướp tại cửa hàng thực phẩm của ông, giữa lúc đang xảy ra những cuộc bạo loạn đã thiêu rụi các khu phố nghèo tại Los Angeles. Sau thảm kịch, cô trốn tránh trung tâm bảo trợ xã hội để không bị nhận làm con nuôi, rồi hay lui tới nhà Black Mamma, người có ngoại hình giống hệt Tina Turner và từng làm gái điếm với thành tích cho cả nửa số đàn ông tại MacArthur Park nếm mùi đời. Cô vẫn tiếp tục vừa học vừa làm, được chăng hay chớ: phục vụ bàn tại Pizza Hut, bán hàng tại các cửa hàng trang sức giá rẻ, làm chiêu đãi viên cho các hội nghị hạng xoàng. Rồi bất ngờ cô thi đỗ ngay vào trường cảnh sát, gia nhập Lực lượng cảnh sát Los Angeles khi mới hai mươi hai, sau đó cô được thăng cấp với tốc độ chóng mặt: ban đầu là sĩ quan, rồi điều tra viên và mới cách đây vài ngày là lon trung sĩ.
- Gần đây cậu có nói chuyện điện thoại với Tom không?
- Tớ gửi cho cậu ấy hai tin nhắn mỗi ngày, Carole vừa mở mắt ra vừa đáp, nhưng cùng lắm cũng chỉ nhận được những câu trả lời cụt lủn.
Cô nhìn Milo chằm chằm:
- Giờ bọn mình biết làm gì giúp cậu ấy đây?
- Đầu tiên là ngăn không cho cậu ta tự hủy hoại mình, anh đáp đồng thời lôi từ túi áo ra mấy tuýp thuốc ngủ và chống trầm cảm vừa xoáy được.
- Cậu có biết rằng trong tất cả những chuyện này có một phần là lỗi của cậu không hả?
- Aurore bỏ cậu ta cũng là lỗi của tớ à? anh cãi lại.
- Cậu biết rõ là tớ đang định nói gì mà.
- Xảy ra khủng hoảng tài chính thế giới là lỗi của tớ hả? Madoff lừa đảo 50 tỷ đô la cũng là lỗi của tớ hả? Vả lại, hãy trả lời tớ thật lòng: cậu nghĩ thế nào về cô gái đó?
Carole nhún vai tỏ vẻ bất lực.
- Tớ không biết, nhưng tớ chắc chắn cô ta sinh ra không phải để dành cho cậu ấy.
Ở đằng xa, trên đê chắn sóng, buổi hội chợ đang đến hồi đông đúc nhất. Tiếng trẻ con la hét hòa với mùi kẹo bông và mứt táo. Với bánh xe khổng lồ và những trò chơi tụt dốc, công viên giải trí được xây dựng ngay trên mặt nước, đối diện với hòn đảo nhỏ Santa Catalina hiện ra thấp thoáng nhận thấy qua màn sương mờ.
Milo thở dài:
- Tớ lo rằng rồi sẽ chẳng có ai biết được đoạn kết của Bộ ba Thiên thần.
- Tớ biết đấy, Carole bình thản đáp lời.
- Cậu biết kết thúc của câu chuyện hả?
- Tom đã kể tớ nghe.
- Thật không? Bao giờ?
Ánh mắt cô bối rối.
- Lâu rồi, cô trả lời bâng quơ.
Milo nhíu mày. Cảm giác ngạc nhiên pha lẫn với một chút thất vọng. Anh tưởng mình biết mọi chuyện về cuộc đời Carole: gần như ngày nào họ cũng gặp nhau, cô là người bạn thân nhất của anh, gia đình duy nhất thực sự của anh và - dù cho anh không chịu thừa nhận - là người phụ nữ duy nhất anh có cảm tình.
Vẻ lơ đãng, Milo nhìn ra bãi biển. Giống như trong phim truyền hình, một vài người dũng cảm đang đối mặt với những con sóng trên tấm ván trượt, trong khi các nhân viên giám sát bãi biển với thân hình đáng mơ ước thì quan sát từ căn lều gỗ của họ. Nhưng Milo nhìn mà chẳng thấy mấy người đó, bởi anh chỉ quan tâm tới Carole.
Giữa họ là một sợi dây gắn kết rất bền chặt, bắt nguồn từ thuở ấu thơ, pha trộn giữa cảm giác ngượng ngùng và sự tôn trọng lẫn nhau. Dù chưa bao giờ dám thổ lộ tình cảm của mình song anh quan tâm, chăm sóc Carole như gìn giữ con ngươi của mắt mình và lo lắng cho cô bởi những hiểm nguy trong nghề cảnh sát. Cô không hề hay biết điều ấy nhưng nhiều đêm, Milo đã lái xe tới ngủ trong hầm giữ xe tại tòa nhà cô ở chỉ để có được cảm giác yên tâm là đang ở gần cô. Sự thật là anh sợ mất cô hơn bất cứ thứ gì khác trên đời dù cho chính bản thân anh cũng không hiểu mất cô là như thế nào: lo sợ cô lao vào tàu hỏa? Hay bị trúng đạn lạc khi lùng bắt một con nghiện? Hay đúng hơn là cam chịu nhìn cô vui vẻ trong vòng tay một người đàn ông khác?
o O o
Carole đeo kính râm vào rồi cởi thêm một cúc áo. Dù trời nóng nhưng Milo cố chịu, không xắn tay áo lên. Phía trên cánh tay anh có xăm những dấu hiệu bí hiểm, đó là bằng chứng không thể xóa nhòa của thời kỳ anh là thành viên của MS-13, còn được gọi là Mara Salvatrucha, một băng nhóm vô cùng hung hãn lộng hành khắp các khu nhà tù tại MacArthur Park. Năm mười hai tuổi, do vô công rỗi nghề mà anh đã gia nhập băng này. Mẹ là người Ailen còn bố là người Mêhicô, Milo được các thành viên MS-13 coi là một “chicano” - một người Mỹ gốc Mêhicô. Băng nhóm toàn thanh niên Salvador nhập cư này đã bắt anh phải thực hiện nghi lễ corton: nghi lễ nhập hội gồm màn cưỡng hiếp tập thể đối với các cô gái và đánh nhừ tử trong vòng nửa tiếng đối với đám con trai. Một hành động phi lý để chứng tỏ lòng dũng cảm, khả năng chịu đựng cũng như lòng trung thành của kẻ muốn nhập hội, nhưng đôi khi màn nhập hội này cũng kết thúc trong vũng máu.
Dù còn ít tuổi nhưng Milo cũng đã “sống sót” qua màn nhập hội ấy, rồi trong hơn hai năm, anh đã ăn trộm ô tô, buôn bán ma túy, tống tiền dân làm ăn và buôn súng cho Mara. Mười lăm tuổi, anh biến thành một loài thú dữ mà cuộc sống chỉ bị chi phối bởi bạo lực và nỗi sợ hãi. Mắc kẹt trong cái vòng tròn luẩn quẩn ấy, tương lai chỉ nhắm đến cái chết hoặc nhà tù, anh đã được giải cứu nhờ tài trí của Tom và tình cảm của Carole, hai người họ đã đưa anh ra khỏi địa ngục, phủ nhận nguyên tắc không thể rời khỏi Mara, chỉ trừ khi chết.
Mặt trời buổi hoàng hôn đang rọi xuống những tia nắng cuối cùng. Milo chớp chớp mắt, vừa để bảo vệ mắt trước tia nắng vừa để tìm lại kỷ niệm cùng những nỗi đau của quá khứ.
- Tớ mời cậu đi ăn hải sản nhé? anh đứng phắt dậy đề xuất.
- Thiết nghĩ với những gì còn lại trong tài khoản của cậu, có lẽ tớ nên là người mời, Carole nhận xét.
- Đó sẽ là một cách ăn mừng cậu được thăng cấp, anh vừa nói vừa chìa tay giúp cô đứng dậy.
Họ rời bãi biển chẳng chút hào hứng và đi bộ một quãng dọc con đường dành cho xe đạp nối liền Venice Beach và Santa Monica.
Rồi họ đi vào Third Street Promenade, một con phố rộng, mặt đường lát đá còn hai bên trồng toàn cọ, ở đây toàn là các phòng trưng bày nghệ thuật và các nhà hàng thời thượng.
Họ đến ngồi ở hàng hiên của quán bia Anisette, thực đơn ở đây được viết bằng tiếng Pháp với những món ăn có cái tên xa lạ như rau diếp xoăn quấn mỡ khổ, lườn bò tẩm hành hay táo Dauphiné.
Milo gọi một thứ rượu khai vị có tên pastis, được đựng trong một ly lớn đầy đá theo kiểu California.
Bất chấp màn diễn của các nghệ sĩ tung hứng, nhạc công rồi người diễn trò khạc lửa khiến cho khu phố náo nhiệt hẳn lên, bữa tối vẫn ủ ê. Carole buồn bã còn Milo như bị tra tấn và nặng trĩu cảm giác tội lỗi. Cuộc trò chuyện xoay quanh Tom và Aurore.
- Cậu có biết tại sao cậu ấy viết không? đang giữa bữa ăn, đột nhiên Milo hỏi khi nhận ra mình không biết một điểm cốt yếu trong tâm lý bạn mình.
- Thế là thế nào?
- Tớ biết Tom lúc nào cũng thích đọc, thế nhưng viết lách lại là chuyện khác. Và khi còn niên thiếu cậu hiểu rõ cậu ấy hơn tớ. Vậy thì vào lúc ấy, điều gì đã thôi thúc cậu ấy viết câu chuyện đầu tiên?
- Tớ không biết, Carole vội vã đáp lời.
Nhưng về điểm này, cô đã nói dối.
o O o
Malibu
8 giờ tối
Sau khi lang thang trong thành phố, tôi đỗ chiếc Bugatti có nguy cơ bị tịch biên trước cửa ngôi nhà mà tôi vừa biết rằng nó không còn thuộc về mình nữa. Vài giờ trước, tôi ở dưới đáy vực thẳm nhưng ngồi trên một gia sản 10 triệu đô la. Còn giờ đây, đúng là tôi ở dưới đáy vực thẳm...
Kiệt quệ, mệt đến đứt hơi dù chẳng hề chạy, tôi thả mình xuống tràng kỷ, mắt nhìn vô hồn vào đám xà ngang dọc chằng chịt chống đỡ mái nhà thoai thoải.
Đầu đau nhức, lưng mỏi nhừ, đôi bàn tay xâm xấp mồ hôi còn dạ dày thì cứ quặn thắt lên. Tim đập thình thịch trong lồng ngực khiến tôi tức thở; lòng tôi trống rỗng, bị cảm giác nóng rực thiêu đốt, cảm giác ấy cuối cùng cũng đã trả thù được tôi.
Bao năm nay, tôi miệt mài viết đến trắng đêm, dốc vào đó mọi cảm xúc cũng như năng lượng của mình. Rồi tôi còn dự bao buổi họp báo, ký tặng sách cho độc giả khắp nơi trên thế giới. Tôi đã thành lập một tổ chức từ thiện nhằm giúp trẻ em trong khu phố trước kia tôi từng sống được học nghệ thuật. Và trong một vài buổi hòa nhạc, tôi thậm chí còn biểu diễn cùng các “thần tượng” của mình: nhóm Rock Bottom Remainders[1].
Nhưng giờ đây tôi chẳng còn hứng thú với bất cứ điều gì: con người, sách vở, âm nhạc và thậm chí cả những ánh hoàng hôn trên đại dương.
Tôi cố gắng đứng dậy ra tựa khuỷu tay vào lan can sân hiên một lúc. Ở dưới kia, trên bãi biển là một chiếc Chrysler cổ màu vàng vỏ gỗ đánh véc ni, di sản của thời kỳ Beach Boys, đang ngạo nghễ giương ra trên tấm kính phía sau câu khẩu hiệu của thành phố: Malibu, where the mountain meets the sea[2].
Tôi nhìn về phía đường viền sáng rực nơi chân trời đang soi sáng cả bầu trời trước khi bị những con sóng cuốn trôi, tôi cứ nhìn như thế cho tới khi mắt nhòa đi. Cảnh tượng xưa kia từng hớp hồn tôi giờ chẳng gợi lên trong tôi chút cảm xúc nào. Tôi chẳng cảm thấy gì nữa, cứ như thể kho xúc cảm đã cạn kiệt.
Chỉ một thứ có thể cứu rỗi tôi vào lúc này: được gặp lại Aurore, cơ thể mảnh mai của nàng, làn da mịn màng, đôi mắt ánh bạc cùng mùi hương như mùi cát nơi nàng. Nhưng tôi hiểu điều ấy chẳng bao giờ xảy ra. Tôi hiểu mình đã thua cuộc và trong trận chiến ấy, tôi chẳng còn lại gì ngoài mong muốn đốt cháy những nơ ron thần kinh của mình bằng những thứ thuốc an thần hoặc bằng bất cứ thứ gì dơ bẩn khác có thể có.
Tôi cần phải ngủ. Quay vào phòng khách, tôi cuống cuồng tìm thuốc nhưng tôi đoán Milo đã tống hết chúng đi. Tôi chạy vào bếp, bới trong túi rác. Chẳng có gì. Hoảng sợ, tôi lao xuống tầng dưới, mở tất cả các ngăn tủ ra tìm chiếc túi du lịch. Nằm gọn trong một ngăn nhỏ, hộp thuốc ngủ dùng dở cùng vài viên chống trầm cảm vẫn còn sót lại từ chuyến đi Dubai quảng bá sách gần đây nhất, một buổi ký tặng sách tại một nhà sách lớn ở Mall of the Emirates.
Gần như miễn cưỡng, tôi dốc tất cả những viên thuốc con nhộng vào lòng bàn tay rồi ngồi một lúc nhìn nắm thuốc màu xanh và trắng dường như đang coi thường tôi:
Nào, cứ thử xem!
Tôi chưa bao giờ cảm thấy trống rỗng đến vậy. Trong đầu tôi, những hình ảnh khủng khiếp lộn xộn hiện ra: thân thể tôi treo trên một sợi dây thừng, vòi gaz trong miệng tôi, nòng súng nơi thái dương tôi. Không sớm thì muộn cuộc đời tôi chắc hẳn rồi cũng sẽ kết thúc theo cách như vậy. Trong sâu thẳm lòng mình chẳng phải tôi vẫn luôn biết điều đó sao?
Nào, cứ thử xem!
Tôi cho cả vốc thuốc vào mồm như thể đó là một lối thoát. Tôi không nuốt nổi nhưng một ngụm nước khoáng sẽ cuốn trôi tất cả.
Uống xong tôi lê bước tới tận phòng ngủ rồi đổ ập xuống giường.
Bầu không khí trống rỗng và lạnh lẽo, bao quanh là một bức tường kính phản quang lớn màu lam, đủ độ trong để đón ánh sáng bên ngoài.
Tôi co rúm người lại dưới tấm chăn, bị những suy nghĩ bệnh hoạn quật ngã.
Treo trên bức tường trắng, cặp tình nhân trong tranh của Marc Chagall nhìn tôi đầy thương hại, cứ như họ thấy tiếc vì không thể xoa dịu nỗi đau trong tôi. Trước cả khi tôi mua nhà (mà giờ đây không còn là nhà của tôi nữa) và trước cả khi tôi mua nhẫn cho Aurore (giờ đây cũng không còn là Aurore của tôi nữa), việc tôi mua bức tranh của họa sĩ người Nga là điều điên rồ đầu tiên tôi làm. Mang cái tên giản dị, Lovers in Blue, bức tranh của Chagall vẽ từ năm 1914. Tôi đã ngay lập tức say mê bức tranh vẽ cặp tình nhân đang ôm siết lấy nhau, hòa hợp trong một tình yêu bí hiểm, chân thành và êm dịu này. Với tôi, nó biểu trưng cho việc hai con người bị tổn thương được chữa lành vết đau, gắn bó với nhau để rồi chỉ còn cùng sẻ chia một vết sẹo.
Trong lúc nhẹ nhàng rơi vào một giấc ngủ sâu, tôi có cảm tưởng mình đang dần xa rời những nỗi đau trần thế. Thân thể tôi tan biến, ý thức xa rời tôi, cuộc sống rời bỏ tôi...
Chú thích
[1] Nhóm nhạc Rock bao gồn các nhà văn nổi tiếng - Stephen King, Scott Turow, Matt Groening, Mitch Albom... - họ biểu diễn để gây quỹ tài trợ cho các dự án xóa mù chữ.
[2] Tiếng Anh trong nguyên bản: Mlibu, nơi núi non gặp gỡ biễn cả. (Chú thích của tác giả.)