Chương : 35
TÔI BĂNG QUA CÁNH CỬA, muốn kiệt sức nhưng vẫn chạy như bay lên lầu để có thể chỉ cho Riley xem chiếc kẹo que xinh xắn mừng ngày lễ Valentine của tôi. Ôi, chiếc kẹo que! Giờ đây nó chẳng khác nào ánh mặt trời lung linh, chẳng khác nào tiếng chim hót líu lo. Nó biến một ngày của tôi chuyển mình sang hướng hoàn toàn khác.
Nhưng khi tôi bắt gặp Riley ngồi một mình trong chiếc ghế sofa, chỉ vài giây trước khi con bé quay lại và kịp nhìn thấy tôi, tôi nghe xao động cả người trước dáng vẻ cô đơn và bé bỏng của nó. Chỉ một tíc tắc ấy cũng đủ gợi nhắc cho tôi tất cả những điều mà Ava nói, rằng tôi đã nói lời chia tay sai người rồi.
Không khí nén chặt quanh tôi.
“Này...”, con bé toe toét cười với tôi, cố thay đổi hẳn dáng vẻ của mình trước đó. “Chị không tin được đâu, em vừa mới xem Oprah. Đó là một con chó bị mất hết cả hai cẳng trước, và bây giờ thì nó có thể...”
Tôi thả cái giỏ xách của mình xuống sàn, ngồi xuống bên cạnh con bé, chộp lấy cái remote và bấm chế độ câm tiếng.
“Có chuyện gì thế?” Con bé cau có nhìn tôi vì đã bắt con chó Oprah trong bộ phim hoạt hình nó đang xem im lặng.
“Em đang làm gì ở đây?”, tôi hỏi.
“Ừm... Thì em đang ngồi trên sofa, đợi chị về nhà...”
“Không, chị muốn hỏi là tại sao em lại ở đây? Tại sao em không... em không ở một nơi nào đó khác?”
Con bé mím chặt môi, vặn vẹo người, vẻ như thích được xem tiếp chương trình tivi hơn là nói chuyện với tôi.
“Tại sao em lại không ở bên bố mẹ và con Buttercup?”
Tôi hỏi, thấy môi đứa em gái bé bỏng của mình bắt đầu run run. Ban đầu chỉ là run rất nhẹ, nhưng sau đó chuyển sang run bần bật. Cảm giác trong tôi thật kinh khủng. Nhưng tôi biết rằng mình phải tiếp tục những lời này.
“Riley”. Tôi ngừng lại, nuốt nước bọt một cách khó khăn. “Riley, chị không nghĩ rằng em nên tiếp tục ở đây nữa”.
“Chị đuổi em à?” Con bé há hốc mồm, mắt trợn tròn nhìn tôi.
“Không phải cưng ạ. Hoàn toàn không phải thế, chị chỉ...”
“Chị không thể ngăn cản em đến thăm chị được, Ever. Em làm những gì em muốn. Bất cứ thứ gì. Và đây không phải là chuyện chị có thể bảo em làm hay không!”
Con bé nói không ngừng, vẻ như muốn chạy biến khỏi phòng.
Nhưng không, nó khoanh tay lại, mím môi, buông người thả phịch mình xuống chiếc ghế sofa. Trong con bé lúc này trộn lẫn đủ mọi cảm xúc khác nhau. Tức giận, hoang mang, rối bời. Có lẽ là tất cả.
“Không phải em ạ. Chỉ là vì... Trong phút chốc, chị cảm thấy giống như... Nếu em bận rộn với chuyện gì đó khác, có lẽ em sẽ hạnh phúc hơn? Chị vui vì em ở đây, nhưng chị tự hỏi phải chăng em ở đây là vì chị? Thật sự chị không chịu đựng nổi với ý nghĩ không còn em bên mình, nhưng chị biết rằng có một chuyện khác quan trọng hơn: Đó là em có hạnh phúc hay không? Em sẽ không còn cần phải chờ đợi chị, không còn phải trải qua hết ngày này đến ngày khác quanh quẩn với chuyện rình mò dọ thám những ngôi sao điện ảnh để làm thú vui giải trí. Chị... chị không nghĩ đó là việc phù hợp với em...”
Tôi ngừng lại lấy hơi, ước mình không phải tiếp tục. Nhưng tôi biết, tôi phải làm điều ấy.
“Được nhìn thấy em, được nói chuyện với em luôn là phần tuyệt diệu nhất trong mỗi ngày của chị. Nhưng, chị không thể không nghĩ tới chuyện rằng...
có một nơi nào đó tốt hơn cho em!”
Con bé nhìn chằm chằm cái tivi, trong khi tôi nhìn chằm chằm vào nó.
Chúng tôi ngồi im lặng như thế một lúc lâu, cho đến khi Riley lên tiếng.
“Nếu như chị muốn biết, thì để em nói. Em rất hạnh phúc. Rất tuyệt và rất hạnh phúc...”
Nó lắc đầu, khoanh tay trước ngực. “Lúc thì em sống ở đây, lúc thì em sống ở nơi khác. Có một nơi tên là Khu vườn mùa hè, đó là một nơi tuyệt lắm...”
Tôi gật đầu. Đương nhiên là tôi nhớ khu vườn ấy.
Con bé tựa lưng vào chiếc gối dựa. “Đấy, tốt cho cả hai chúng ta, đúng không nào? Có vấn đề gì mà chị không vui?”
Tôi nhìn con bé một lúc lâu, không muốn tranh cãi, nhưng biết chắc chắn mình đang làm một việc đúng đắn – việc duy nhất phải làm trong lúc này.
“Vấn đề là, chị nghĩ có một nơi khác thậm chí còn tốt hơn. Một nơi khác. Nơi bố mẹ và con Buttercup đang chờ em...”
“Nghe này, chị Ever!” Con bé cắt ngang lời tôi. “Em biết chị nghĩ em ở đây bởi vì em muốn được sống tuổi mười ba, thông qua cuộc sống của chị. Nhưng chị hãy thôi đi cái suy nghĩ ấy, hoặc cái suy nghĩ rằng em ở đây vì em không thể rời khỏi chị đi, được không?”
Con bé ngừng lại. Mím môi. Rồi những lời nói lại tuôn trào ra như không thể dừng được nữa.
“Ban đầu, em theo sát mọi người... Em cùng với bố mẹ và con Buttercup băng mình đi về phía trước. Nhưng rồi, em thấy chị đứng lại. Em vòng trở lại tìm chị, thì lúc ấy chị đã đi rồi, đã quay lại mất rồi. Em vội chạy đi, nhưng em không thể tìm thấy cây cầu lần nữa. Bố mẹ và con Buttercup đã băng qua cây cầu. Chỉ còn em bị kẹt lại. Em đã gặp vài người, những người đã lởn vởn nơi đó nhiều năm. Vâng, họ chỉ cho em đi vòng quanh, và...”
“Riley...” Tôi lên tiếng, nhưng con bé ngắt lời.
“Chị biết không, em đã thấy bố mẹ và con Buttercup. Họ đều ổn cả. Nói thật tình, họ trông còn có vẻ hạnh phúc, thoải mái, vui vẻ hơn bao giờ hết. Họ chỉ ước một điều duy nhất là chị có thể xóa đi cái cảm giác tội lỗi, rằng mình có lỗi suốt ngày như thế này. Họ có thể thấy chị. Chị biết mà, phải không? Chị chỉ không nhìn thấy họ thôi. Chị không thể nhìn thấy một người khi họ đã băng qua cây cầu. Chị chỉ có thể thấy những người giống như em!”
Nhưng tôi không quan tâm đến những chi tiết kiểu như tôi có thể thấy ai, không thể thấy ai. Tôi vẫn còn đang bị lướng vướng trở lại trong cái chỗ mọi người muốn tôi ngưng đi cảm giác mình là người có lỗi. Có thể mọi người chỉ muốn làm cho tôi cảm thấy dễ chịu và thoải mái hơn thôi. Chứ sự thật vẫn là sự thật, và tai nạn xe thảm khốc ấy vẫn là lỗi của tôi. Nếu tôi không đòi bố một mực quay lại để lấy chiếc áo của đội cổ vũ mà tôi bỏ quên, chiếc áo tôi yêu thích nhất, thì chúng tôi đã không gặp phải sự cố đó. Gia đình tôi vẫn ở trong xe, bon bon trên đường, không phải gặp con nai đâm sầm vào phía trước xe và bố sẽ không bẻ ngoặt tay lái. Chiếc xe sẽ không lao thẳng vào cái cây, giết chết tất cả mọi người trên đó, trừ tôi!
Lỗi của tôi.
Tất cả mọi thứ.
Tất cả là lỗi của tôi.
Nhưng Riley chỉ lắc đầu.
“Nếu chị cứ quả quyết đó là lỗi của ai đó, thì đó là lỗi của bố. Bởi vì ai cũng biết rằng chị không hề tính đến chuyện bẻ ngoặt tay lái khi thấy một con vật đâm sầm vào trước xe của mình. Có thể chị sẽ chỉ đâm vào nó và tiếp tục đi. Nhưng cả chị và em đều biết rằng bố thì sẽ không bao giờ làm như thế. Bố cố hết sức để cứu tất cả chúng ta nhưng không bao giờ muốn phải nghiến nát con nai. Và nếu chị cứ quả quyết đó là lỗi của ai đó, thì... có thể đó là lỗi của con nai nhỉ! Sao con nai không đi trong rừng, nơi nó sống. Hay là lỗi của người chịu trách nhiệm về chất lượng, độ an toàn của con đường? Sao ông ta không làm cho con đường đỡ trợt hơn, chắc chắn hơn. Ồ, hay cũng có thể là lỗi của hãng xe hơi đã chế tạo nên chiếc xe của chúng ta khi mà họ làm hệ thống thắng xe tệ như thế. Hay có thể là...”
Con bé ngừng lại, nhìn sâu vào mắt tôi.
“Chị hiểu điều em nói không? Rằng đó không phải là lỗi của ai cả. Đó là cách mà mọi thứ trên đời này xảy đến. Là cách mà những định mệnh phải xảy ra....”
Tôi gục người xuống, nén một tiếng nấc cứ nghẹn ngào nơi cổ họng. Tôi muốn tin điều đó biết bao, nhưng tôi không thể. Tôi biết mọi thứ sẽ tốt hơn nếu như tôi chấp nhận. Nhưng...
“Bố mẹ và cả em đều biết điều đó, đều chấp nhận nó một cách nhẹ nhàng. Vậy thì bây giờ, đã đến lúc chị cũng cần biết điều đó và chấp nhận nó. Chị hiểu không?”
Tôi nuốt nước bọt, nhìn lên tivi. Trong bộ phim hoạt hình, con chó bị tật hai chân vẫn chập choạng đứng lên, nỗ lực không ngừng. Cơ thể nó không ngừng chuyển động.
“Chị có nhớ cái lần mà trông em có vẻ mờ mờ ảo ảo không? Ấy bởi vì em đã sẵn sàng đi. Mỗi ngày, em đều nhích từng bước gần hơn đến cây cầu. Nhưng rồi em quyết định ở lại. Vâng, em ở lại vì có vẻ như chị cần em nhất. Em cũng không thể chịu nổi khi phải xa chị. Em vẫn không thể chịu nổi khi xa chị...” Con bé dịu dàng.
Chao ôi, giá ai đó trên đời này biết rằng tôi muốn con bé ở lại biết bao. Nhưng tôi không thể giữ nó ở lại được nữa. Tôi đã cướp mất cuộc đời thật của nó ở tuổi mười hai. Tôi không thể thêm một lần nữa cướp mất cuộc đời của em mình sau khi chết.
“Riley, đến lúc em phải đi rồi!”
Tôi thì thầm. Biết rằng những điều mình nói là đúng đắn. “Chị nghĩ em nên đi!”
Con bé đứng dậy khỏi chiếc ghế sofa, đôi mắt nó mở to và chất chứa nỗi buồn. Hai má thì lóng lánh những giọt nước mắt cứ như muôn ngàn hạt pha lê.
Tôi nuốt nước bọt một cách khó khăn, trước khi cố sắp xếp những suy nghĩ trong đầu của mình và diễn giải chúng ra thành lời.
“Chị biết em đã giúp chị rất nhiều. Chị không tưởng tượng mình sẽ sống thế nào hay làm được gì nếu không có em. Em là lý do duy nhất kéo chị gượng dậy mỗi ngày, đứng trên đôi chân của mình và đối diện với những con người khác. Nhưng giờ đây, thật sự chị đã thấy ổn hơn. Đây là lúc để em...”
Tôi ngừng lại, nghẹn giọng, không thể tiếp tục nữa.
“Mẹ nói cuối cùng rồi chị sẽ đưa em trở về”. Riley mỉm cười.
Tôi nhìn con bé, tự hỏi điều đó nghĩa là gì.
“Mẹ nói: Một ngày nào đó, chị của con sẽ trưởng thành thật sự, và sẽ làm một việc đúng đắn, một việc phù hợp...”
Khi con bé vừa nói xong câu ấy, cả hai chúng tôi đều phá lên cười.
Phá lên cười đúng là một hành động ngớ ngẩn trong trường hợp này. Nhưng phá lên cười trước một câu nói của mẹ giúp chúng tôi giải tỏa mọi cảm giác căng thẳng và đau buồn của chuyện phải nói lời tạm biệt.
Và khi tiếng cười lắng xuống, tôi nhìn đăm đăm đứa em gái mình một lần nữa. “Em sẽ vẫn đến và nói chào chị, phải không?”
Con bé lắc đầu, nhìn đi chỗ khác.
“Em nghi ngờ chuyện mai mốt chị có thể còn nhìn thấy em. Từ lúc em nhận ra chị không thể nhìn thấy bố mẹ...”
“Thế còn ở Khu vườn Mùa hè thì sao? Chị có thể thấy em ở đó không?” Tôi vội nghĩ đến chuyện mình có thể quay lại chỗ cô Ava, nói cô chỉ cho tôi cách gì đó để thăm Riley ở Khu vườn Mùa hè.
Riley nhún vai.
“Em không chắc. Nhưng em sẽ làm hết sức để gửi cho chị vài dấu hiệu, vài thứ gì đấy để chị biết rằng em vẫn ổn, vài thứ gì đấy đặc biệt từ em”.
“Giống như... cái gì?” Tôi hỏi, kinh hãi và hốt hoảng khi thấy con bé bắt đầu mờ nhạt dần. Tôi không muốn chuyện đó xảy ra quá gấp gáp thế này.
“Làm thế nào chị biết được? Làm thế nào chị biết chắc đó là dấu hiệu từ em?”
“Tin em đi, rồi chị sẽ biết!”
Con bé mỉm cười, vẫy nhẹ bàn tay tạm biệt trước khi tan biến đi như một làn khói mỏng.
Nhưng khi tôi bắt gặp Riley ngồi một mình trong chiếc ghế sofa, chỉ vài giây trước khi con bé quay lại và kịp nhìn thấy tôi, tôi nghe xao động cả người trước dáng vẻ cô đơn và bé bỏng của nó. Chỉ một tíc tắc ấy cũng đủ gợi nhắc cho tôi tất cả những điều mà Ava nói, rằng tôi đã nói lời chia tay sai người rồi.
Không khí nén chặt quanh tôi.
“Này...”, con bé toe toét cười với tôi, cố thay đổi hẳn dáng vẻ của mình trước đó. “Chị không tin được đâu, em vừa mới xem Oprah. Đó là một con chó bị mất hết cả hai cẳng trước, và bây giờ thì nó có thể...”
Tôi thả cái giỏ xách của mình xuống sàn, ngồi xuống bên cạnh con bé, chộp lấy cái remote và bấm chế độ câm tiếng.
“Có chuyện gì thế?” Con bé cau có nhìn tôi vì đã bắt con chó Oprah trong bộ phim hoạt hình nó đang xem im lặng.
“Em đang làm gì ở đây?”, tôi hỏi.
“Ừm... Thì em đang ngồi trên sofa, đợi chị về nhà...”
“Không, chị muốn hỏi là tại sao em lại ở đây? Tại sao em không... em không ở một nơi nào đó khác?”
Con bé mím chặt môi, vặn vẹo người, vẻ như thích được xem tiếp chương trình tivi hơn là nói chuyện với tôi.
“Tại sao em lại không ở bên bố mẹ và con Buttercup?”
Tôi hỏi, thấy môi đứa em gái bé bỏng của mình bắt đầu run run. Ban đầu chỉ là run rất nhẹ, nhưng sau đó chuyển sang run bần bật. Cảm giác trong tôi thật kinh khủng. Nhưng tôi biết rằng mình phải tiếp tục những lời này.
“Riley”. Tôi ngừng lại, nuốt nước bọt một cách khó khăn. “Riley, chị không nghĩ rằng em nên tiếp tục ở đây nữa”.
“Chị đuổi em à?” Con bé há hốc mồm, mắt trợn tròn nhìn tôi.
“Không phải cưng ạ. Hoàn toàn không phải thế, chị chỉ...”
“Chị không thể ngăn cản em đến thăm chị được, Ever. Em làm những gì em muốn. Bất cứ thứ gì. Và đây không phải là chuyện chị có thể bảo em làm hay không!”
Con bé nói không ngừng, vẻ như muốn chạy biến khỏi phòng.
Nhưng không, nó khoanh tay lại, mím môi, buông người thả phịch mình xuống chiếc ghế sofa. Trong con bé lúc này trộn lẫn đủ mọi cảm xúc khác nhau. Tức giận, hoang mang, rối bời. Có lẽ là tất cả.
“Không phải em ạ. Chỉ là vì... Trong phút chốc, chị cảm thấy giống như... Nếu em bận rộn với chuyện gì đó khác, có lẽ em sẽ hạnh phúc hơn? Chị vui vì em ở đây, nhưng chị tự hỏi phải chăng em ở đây là vì chị? Thật sự chị không chịu đựng nổi với ý nghĩ không còn em bên mình, nhưng chị biết rằng có một chuyện khác quan trọng hơn: Đó là em có hạnh phúc hay không? Em sẽ không còn cần phải chờ đợi chị, không còn phải trải qua hết ngày này đến ngày khác quanh quẩn với chuyện rình mò dọ thám những ngôi sao điện ảnh để làm thú vui giải trí. Chị... chị không nghĩ đó là việc phù hợp với em...”
Tôi ngừng lại lấy hơi, ước mình không phải tiếp tục. Nhưng tôi biết, tôi phải làm điều ấy.
“Được nhìn thấy em, được nói chuyện với em luôn là phần tuyệt diệu nhất trong mỗi ngày của chị. Nhưng, chị không thể không nghĩ tới chuyện rằng...
có một nơi nào đó tốt hơn cho em!”
Con bé nhìn chằm chằm cái tivi, trong khi tôi nhìn chằm chằm vào nó.
Chúng tôi ngồi im lặng như thế một lúc lâu, cho đến khi Riley lên tiếng.
“Nếu như chị muốn biết, thì để em nói. Em rất hạnh phúc. Rất tuyệt và rất hạnh phúc...”
Nó lắc đầu, khoanh tay trước ngực. “Lúc thì em sống ở đây, lúc thì em sống ở nơi khác. Có một nơi tên là Khu vườn mùa hè, đó là một nơi tuyệt lắm...”
Tôi gật đầu. Đương nhiên là tôi nhớ khu vườn ấy.
Con bé tựa lưng vào chiếc gối dựa. “Đấy, tốt cho cả hai chúng ta, đúng không nào? Có vấn đề gì mà chị không vui?”
Tôi nhìn con bé một lúc lâu, không muốn tranh cãi, nhưng biết chắc chắn mình đang làm một việc đúng đắn – việc duy nhất phải làm trong lúc này.
“Vấn đề là, chị nghĩ có một nơi khác thậm chí còn tốt hơn. Một nơi khác. Nơi bố mẹ và con Buttercup đang chờ em...”
“Nghe này, chị Ever!” Con bé cắt ngang lời tôi. “Em biết chị nghĩ em ở đây bởi vì em muốn được sống tuổi mười ba, thông qua cuộc sống của chị. Nhưng chị hãy thôi đi cái suy nghĩ ấy, hoặc cái suy nghĩ rằng em ở đây vì em không thể rời khỏi chị đi, được không?”
Con bé ngừng lại. Mím môi. Rồi những lời nói lại tuôn trào ra như không thể dừng được nữa.
“Ban đầu, em theo sát mọi người... Em cùng với bố mẹ và con Buttercup băng mình đi về phía trước. Nhưng rồi, em thấy chị đứng lại. Em vòng trở lại tìm chị, thì lúc ấy chị đã đi rồi, đã quay lại mất rồi. Em vội chạy đi, nhưng em không thể tìm thấy cây cầu lần nữa. Bố mẹ và con Buttercup đã băng qua cây cầu. Chỉ còn em bị kẹt lại. Em đã gặp vài người, những người đã lởn vởn nơi đó nhiều năm. Vâng, họ chỉ cho em đi vòng quanh, và...”
“Riley...” Tôi lên tiếng, nhưng con bé ngắt lời.
“Chị biết không, em đã thấy bố mẹ và con Buttercup. Họ đều ổn cả. Nói thật tình, họ trông còn có vẻ hạnh phúc, thoải mái, vui vẻ hơn bao giờ hết. Họ chỉ ước một điều duy nhất là chị có thể xóa đi cái cảm giác tội lỗi, rằng mình có lỗi suốt ngày như thế này. Họ có thể thấy chị. Chị biết mà, phải không? Chị chỉ không nhìn thấy họ thôi. Chị không thể nhìn thấy một người khi họ đã băng qua cây cầu. Chị chỉ có thể thấy những người giống như em!”
Nhưng tôi không quan tâm đến những chi tiết kiểu như tôi có thể thấy ai, không thể thấy ai. Tôi vẫn còn đang bị lướng vướng trở lại trong cái chỗ mọi người muốn tôi ngưng đi cảm giác mình là người có lỗi. Có thể mọi người chỉ muốn làm cho tôi cảm thấy dễ chịu và thoải mái hơn thôi. Chứ sự thật vẫn là sự thật, và tai nạn xe thảm khốc ấy vẫn là lỗi của tôi. Nếu tôi không đòi bố một mực quay lại để lấy chiếc áo của đội cổ vũ mà tôi bỏ quên, chiếc áo tôi yêu thích nhất, thì chúng tôi đã không gặp phải sự cố đó. Gia đình tôi vẫn ở trong xe, bon bon trên đường, không phải gặp con nai đâm sầm vào phía trước xe và bố sẽ không bẻ ngoặt tay lái. Chiếc xe sẽ không lao thẳng vào cái cây, giết chết tất cả mọi người trên đó, trừ tôi!
Lỗi của tôi.
Tất cả mọi thứ.
Tất cả là lỗi của tôi.
Nhưng Riley chỉ lắc đầu.
“Nếu chị cứ quả quyết đó là lỗi của ai đó, thì đó là lỗi của bố. Bởi vì ai cũng biết rằng chị không hề tính đến chuyện bẻ ngoặt tay lái khi thấy một con vật đâm sầm vào trước xe của mình. Có thể chị sẽ chỉ đâm vào nó và tiếp tục đi. Nhưng cả chị và em đều biết rằng bố thì sẽ không bao giờ làm như thế. Bố cố hết sức để cứu tất cả chúng ta nhưng không bao giờ muốn phải nghiến nát con nai. Và nếu chị cứ quả quyết đó là lỗi của ai đó, thì... có thể đó là lỗi của con nai nhỉ! Sao con nai không đi trong rừng, nơi nó sống. Hay là lỗi của người chịu trách nhiệm về chất lượng, độ an toàn của con đường? Sao ông ta không làm cho con đường đỡ trợt hơn, chắc chắn hơn. Ồ, hay cũng có thể là lỗi của hãng xe hơi đã chế tạo nên chiếc xe của chúng ta khi mà họ làm hệ thống thắng xe tệ như thế. Hay có thể là...”
Con bé ngừng lại, nhìn sâu vào mắt tôi.
“Chị hiểu điều em nói không? Rằng đó không phải là lỗi của ai cả. Đó là cách mà mọi thứ trên đời này xảy đến. Là cách mà những định mệnh phải xảy ra....”
Tôi gục người xuống, nén một tiếng nấc cứ nghẹn ngào nơi cổ họng. Tôi muốn tin điều đó biết bao, nhưng tôi không thể. Tôi biết mọi thứ sẽ tốt hơn nếu như tôi chấp nhận. Nhưng...
“Bố mẹ và cả em đều biết điều đó, đều chấp nhận nó một cách nhẹ nhàng. Vậy thì bây giờ, đã đến lúc chị cũng cần biết điều đó và chấp nhận nó. Chị hiểu không?”
Tôi nuốt nước bọt, nhìn lên tivi. Trong bộ phim hoạt hình, con chó bị tật hai chân vẫn chập choạng đứng lên, nỗ lực không ngừng. Cơ thể nó không ngừng chuyển động.
“Chị có nhớ cái lần mà trông em có vẻ mờ mờ ảo ảo không? Ấy bởi vì em đã sẵn sàng đi. Mỗi ngày, em đều nhích từng bước gần hơn đến cây cầu. Nhưng rồi em quyết định ở lại. Vâng, em ở lại vì có vẻ như chị cần em nhất. Em cũng không thể chịu nổi khi phải xa chị. Em vẫn không thể chịu nổi khi xa chị...” Con bé dịu dàng.
Chao ôi, giá ai đó trên đời này biết rằng tôi muốn con bé ở lại biết bao. Nhưng tôi không thể giữ nó ở lại được nữa. Tôi đã cướp mất cuộc đời thật của nó ở tuổi mười hai. Tôi không thể thêm một lần nữa cướp mất cuộc đời của em mình sau khi chết.
“Riley, đến lúc em phải đi rồi!”
Tôi thì thầm. Biết rằng những điều mình nói là đúng đắn. “Chị nghĩ em nên đi!”
Con bé đứng dậy khỏi chiếc ghế sofa, đôi mắt nó mở to và chất chứa nỗi buồn. Hai má thì lóng lánh những giọt nước mắt cứ như muôn ngàn hạt pha lê.
Tôi nuốt nước bọt một cách khó khăn, trước khi cố sắp xếp những suy nghĩ trong đầu của mình và diễn giải chúng ra thành lời.
“Chị biết em đã giúp chị rất nhiều. Chị không tưởng tượng mình sẽ sống thế nào hay làm được gì nếu không có em. Em là lý do duy nhất kéo chị gượng dậy mỗi ngày, đứng trên đôi chân của mình và đối diện với những con người khác. Nhưng giờ đây, thật sự chị đã thấy ổn hơn. Đây là lúc để em...”
Tôi ngừng lại, nghẹn giọng, không thể tiếp tục nữa.
“Mẹ nói cuối cùng rồi chị sẽ đưa em trở về”. Riley mỉm cười.
Tôi nhìn con bé, tự hỏi điều đó nghĩa là gì.
“Mẹ nói: Một ngày nào đó, chị của con sẽ trưởng thành thật sự, và sẽ làm một việc đúng đắn, một việc phù hợp...”
Khi con bé vừa nói xong câu ấy, cả hai chúng tôi đều phá lên cười.
Phá lên cười đúng là một hành động ngớ ngẩn trong trường hợp này. Nhưng phá lên cười trước một câu nói của mẹ giúp chúng tôi giải tỏa mọi cảm giác căng thẳng và đau buồn của chuyện phải nói lời tạm biệt.
Và khi tiếng cười lắng xuống, tôi nhìn đăm đăm đứa em gái mình một lần nữa. “Em sẽ vẫn đến và nói chào chị, phải không?”
Con bé lắc đầu, nhìn đi chỗ khác.
“Em nghi ngờ chuyện mai mốt chị có thể còn nhìn thấy em. Từ lúc em nhận ra chị không thể nhìn thấy bố mẹ...”
“Thế còn ở Khu vườn Mùa hè thì sao? Chị có thể thấy em ở đó không?” Tôi vội nghĩ đến chuyện mình có thể quay lại chỗ cô Ava, nói cô chỉ cho tôi cách gì đó để thăm Riley ở Khu vườn Mùa hè.
Riley nhún vai.
“Em không chắc. Nhưng em sẽ làm hết sức để gửi cho chị vài dấu hiệu, vài thứ gì đấy để chị biết rằng em vẫn ổn, vài thứ gì đấy đặc biệt từ em”.
“Giống như... cái gì?” Tôi hỏi, kinh hãi và hốt hoảng khi thấy con bé bắt đầu mờ nhạt dần. Tôi không muốn chuyện đó xảy ra quá gấp gáp thế này.
“Làm thế nào chị biết được? Làm thế nào chị biết chắc đó là dấu hiệu từ em?”
“Tin em đi, rồi chị sẽ biết!”
Con bé mỉm cười, vẫy nhẹ bàn tay tạm biệt trước khi tan biến đi như một làn khói mỏng.